KINH 471. KHÁCH XÁ[1]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Như nhà khách có đủ hạng người đến ở. Hoặc Sát-lị, Bà-la-môn, gia chủ, cư sĩ, người nhà quê, thợ săn, người trì giới, người phạm giới, người tại gia, người xuất gia. Tất cả đều trọ ở trong đó. Thân này cũng lại như vậy. Đủ các thứ thọ sinh khởi như: khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ; thân thọ lạc, thân thọ khổ, thân thọ không khổ không lạc; tâm thọ lạc, tâm thọ khổ, tâm thọ không khổ không lạc; cảm thọ thực vị lạc[2], cảm thọ thực vị khổ, cảm thọ thực vị không khổ không lạc; cảm thọ phi thực vị lạc, cảm thọ phi thực vị khổ, cảm thọ phi thực vị không khổ không lạc; cảm thọ lạc do tham trước, cảm thọ khổ do tham trước, cảm thọ không khổ không lạc do tham trước; cảm thọ lạc xuất ly, cảm thọ khổ xuất ly, cảm thọ không khổ không lạc xuất ly.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:
Như ở trong nhà khách,
Đủ hạng người ở trọ,
Sát lợi, Bà-la-môn,
Gia chủ và cư sĩ,
Chiên-đà-la, dân quê,
Người trì giới, phạm giới,
Kẻ tại gia, xuất gia,
Nhiều hạng người như vậy.
Thân này cũng như vậy,
Các thứ cảm thọ sinh,
Hoặc vui, hoặc khổ thọ,
Và không khổ không lạc,
Thực vị, phi thực vị,
Tham đắm, không tham đắm.
Tỳ-kheo siêng phương tiện,
Chánh trí không lay động,
Đối với các thọ này,
Trí tuệ thường biết rõ,
Vì biết rõ các thọ,
Hiện tại hết các lậu,
Thân chết, không danh số,
An trụ Bát Niết-bàn.
[121a] Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 472. THIỀN[3]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo một mình ở chỗ vắng[4], thiền tịnh, tư duy: ‘Thế Tôn nói ba thọ: Lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ; lại nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ. Vậy, điều này có nghĩa gì?”
Tỳ-kheo này suy nghĩ như vậy rồi, sau khi từ thiền tịnh tỉnh giác, thầy đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con ở chỗ vắng, trong lúc thiền tịnh tư duy có nghĩ rằng: ‘Thế Tôn nói ba thọ: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ; lại nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ. Vậy, điều này có nghĩa gì?”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Ta vì tất cả hành đều vô thường, tất cả hành là pháp biến đổi nên nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:
Biết các hành vô thường,
Đều là pháp biến dịch,
Nên nói thọ là khổ,
Chánh giác biết điều này.
Tỳ-kheo siêng phương tiện,
Chánh trí không lay động,
Đối với tất cả thọ,
Trí tuệ thường biết rõ.
Biết rõ tất cả thọ,
Hiện tại hết các lậu,
Thân chết, không danh số,
An trụ Bát Niết-bàn.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 473. CHỈ TỨC[5]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, Tôn giả A-nan ở một mình chỗ vắng, trong lúc thiền tịnh tư duy, suy nghĩ rằng: ‘Thế Tôn nói ba thọ: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ; lại nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ. Vậy điều này có nghĩa gì?’
Suy nghĩ vậy rồi, sau khi từ thiền tịnh tỉnh giác, A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, lúc con một mình ở chỗ vắng, thiền tịnh tư duy, suy nghĩ rằng: ‘Như lời Thế Tôn nói ba thọ: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ; lại nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ. Vậy điều này có nghĩa gì?”
Phật bảo A-nan:
“Ta vì tất cả hành là vô thường, tất cả hành là pháp biến đổi, nên nói những gì thuộc về thọ đều là khổ. Lại nữa, A-nan, Ta vì các hành tuần tự tịch diệt[6], vì các hành tuần tự tĩnh chỉ[7], nên Ta nói tất cả thọ [121b] đều là khổ.”
A-nan bạch Phật:
“Thế Tôn vì các hành tuần tự tịch diệt mà nói, là nghĩa thế nào?”
Phật bảo A-nan:
“Khi nhập[8] sơ thiền, ngôn ngữ tịch diệt. Nhập nhị thiền thì tầm tứ[9] tịch diệt. Nhập tam thiền, tâm hỷ tịch diệt[10]. Nhập tứ thiền, hơi thở ra vào tịch diệt. Nhập không vô biên xứ,[11] sắc tưởng tịch diệt. Nhập thức vô biên xứ[12] thì tưởng không vô biên vắng lặng. Nhập vô sở hữu nhập xứ, tưởng thức vô biên xứ tịch diệt. Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng vô sở hữu xứ tịch diệt. Nhập tưởng thọ diệt, tưởng và thọ tịch diệt. Đó gọi là các hành dần dần vắng lặng.”
A-nan bạch Phật:
“Thế Tôn vì các hành tuần tự tĩnh chỉ mà nói, là nghĩa thế nào?”
Phật bảo A-nan:
“Khi nhập sơ thiền, ngôn ngữ tĩnh chỉ. Nhập nhị thiền thì tầm tứ tĩnh chỉ. Nhập tam thiền, tâm hỷ tĩnh chỉ. Nhập tứ thiền, hơi thở ra vào tĩnh chỉ. Nhập không vô biên xứ, sắc tưởng tĩnh chỉ. Nhập thức vô biên xứ thì tưởng không vô biên xứ tĩnh chỉ. Nhập vô sở hữu nhập xứ, tưởng thức vô biên xứ tĩnh chỉ. Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng vô sở hữu xứ tĩnh chỉ. Nhập tưởng thọ diệt, tưởng và thọ tĩnh chỉ. Đó gọi là các hành tuần tự tĩnh chỉ.”
A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, có phải đó gọi là các hành tuần tự tĩnh chỉ?”
Phật bảo A-nan:
“Lại có sự tĩnh chỉ thù thắng, tĩnh chỉ kỳ đặc, tĩnh chỉ tối thượng, tĩnh chỉ vô thượng. Sự tĩnh chỉ như vậy, đối với những sự tĩnh chỉ khác, không gì hơn được.”
A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, những gì là tĩnh chỉ thù thắng, tĩnh chỉ kỳ đặc, tĩnh chỉ tối thượng, tĩnh chỉ vô thượng. Sự tĩnh chỉ như vậy, đối với những sự tĩnh chỉ khác, không gì hơn được?”
Phật bảo A-nan:
“Đối với tham dục, mà tâm ly nhiễm, giải thoát; với sân nhuế, mà tâm ly nhiễm, giải thoát, đó gọi là tĩnh chỉ thù thắng, tĩnh chỉ kỳ đặc, tĩnh chỉ tối thượng, tĩnh chỉ vô thượng. Sự tĩnh chỉ như vậy, đối với những sự tĩnh chỉ khác, không gì hơn được.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 474. TIÊN TRÍ[13]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Phật Tì-bà-thi, khi chưa thành đạo, một mình ở chỗ thanh vắng thiền tịnh tư duy, bằng quán sát thọ như vầy mà quán sát các thọ: ‘Thế nào là thọ? Thế nào là sự tập khởi thọ? Thế nào là sự diệt tận của thọ? [121c] Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ? Thế nào là vị ngọt của thọ? Thế nào là sự tai hại của thọ? Thế nào là sự xuất ly thọ?’ Như vậy quán sát, có ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Khi xúc tập khởi thì thọ tập khởi, khi xúc diệt thì thọ diệt. Nếu đối với thọ mà hoan hỷ, tán thán, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ. Nếu đối với thọ mà không hoan hỷ, tán thán, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ. Hỷ lạc do nhân duyên thọ mà sanh, đó gọi là vị ngọt của thọ. Cảm thọ là vô thường, là pháp biến dịch; đó gọi đó là sự tai hại của thọ. Đối với cảm thọ mà đoạn trừ dục tham, vượt qua dục tham, gọi đó là xuất ly thọ.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
“Giống như Phật Tì-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tì-thấp-bà-phù, Phật Ca-la-ca-tôn-đề, Phật Ca-na-ca-mâu-ni, Phật Ca-diếp và Ta là Phật Thích-ca Văn, khi chưa thành Phật, cũng lại tư duy quán sát các thọ như vậy.”

KINH 475. THIỀN TƯ[14]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo một mình ở chỗ vắng vẻ, thiền tịnh tư duy, quán sát các thọ như vầy: ‘Thế nào là thọ? Thế nào là sự tập khởi của thọ? Thế nào là sự diệt tận của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ? Thế nào là vị ngọt của thọ? Thế nào là sự tai hại của thọ? Thế nào là xuất ly thọ?’”
Tỳ-kheo này sau khi từ thiền tịnh tỉnh giác, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con một mình ở nơi chỗ vắng thiền tịnh, tư duy, quán sát các thọ:‘Thế nào là thọ? Thế nào là sự tập khởi của thọ? Thế nào là sự diệt tận của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ? Thế nào là vị ngọt của thọ vị? Thế nào là sự tai hại của thọ? Thế nào là xuất ly thọ?’”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Có ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Khi xúc tập khởi thì thọ tập khởi, khi xúc diệt tận thì thọ diệt tận. Đối với thọ mà ham muốn, khen ngợi, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ. Đối với thọ mà không ham muốn, khen ngợi, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ. Hỷ lạc do nhân duyên thọ mà sanh, đó gọi là vị ngọt của thọ. Cảm thọ là vô thường, là pháp biến dịch, đó gọi đó là sự tai hại của thọ. Đối với cảm thọ mà đoạn trừ dục tham, vượt qua dục tham, gọi đó là xuất ly thọ.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 476. AN-NAN SỞ VẤN[15]

Như kinh Tỳ-kheo hỏi ở trên, kinh này Tôn giả A-nan cũng hỏi [122a] như vậy.

KINH 477. TỲ KHEO [16]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Thế nào là thọ? Thế nào là sự tập khởi của thọ? Thế nào là sự diệt tận của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói đầy đủ, các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ thực hành.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.
“Này các Tỳ-kheo, có ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Khi xúc tập khởi thì thọ tập khởi, khi xúc diệt tận thọ diệt tận. Đối với thọ mà ham muốn, khen ngợi, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ. Đối với thọ mà không ham muốn, khen ngợi, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ. Hỷ lạc do nhân duyên thọ mà sanh, đó gọi là vị ngọt của thọ. Cảm thọ là vô thường, là pháp biến dịch, đó gọi là sự tai hại của thọ. Đối với cảm thọ mà đoạn trừ dục tham, vượt qua dục tham, gọi đó là xuất ly thọ.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 478. GIẢI THOÁT[17]

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu Ta không biết như thật đối với các thọ; không biết như thật đối với sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ; con đường đưa đến sự tập khởi của thọ, con đường đưa đến sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, xuất ly thọ; thì Ta ở giữa chư Thiên, thế gian, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và các chúng trời, người, không được giải thoát, xuất ly, thoát khỏi các điên đảo, cũng không phải Chánh đẳng Chánh giác[18]. Vì Ta biết như thật đối với các thọ, sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ, con đường đưa đến sự tập khởi của thọ, con đường đưa đến sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, xuất ly thọ, nên ở giữa chư Thiên, thế gian, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và các chúng trời, người, Ta là bậc giải thoát, là bậc xuất ly, là bậc ra khỏi các điên đảo, và đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 479. SA-MÔN BÀ-LA-MÔN[19]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà không biết như thật đối với các thọ; không biết như thật đối với sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ; con đường đưa đến sự tập khởi của thọ, con đường đưa đến sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, xuất ly thọ, người này không phải là Sa-môn, [122b] không phải là Bà-la-môn, không đồng với Sa-môn, Bà-la-môn, cũng không phải nghĩa Sa-môn, cũng không phải nghĩa Bà-la-môn, ngay trong đời hiện tại không tự tri tự tác chứng, tự biết rằng: ‘Sự sanh của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”
“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà biết như thật đối với các thọ; biết như thật đối với sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ; con đường đưa đến sự tập khởi của thọ, con đường đưa đến sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, xuất ly thọ thì, người này là Sa-môn của Sa-môn, Bà-la-môn của Bà-la-môn, đồng với Sa-môn, đồng với Bà-la-môn, đúng nghĩa Sa-môn, đúng nghĩa Bà-la-môn, ngay trong đời hiện tại tự tri tự tác chứng, tự biết rằng: ‘Sự sanh của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như Sa-môn, không phải Sa-môn. Cũng vậy, Sa-môn số và không phải Sa-môn số cũng đều như vậy.

KINH 480. NHẤT-XA-NĂNG-GIÀ-LA[20]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong rừng Nhất-xa-năng-già-la[21], nước Nhất-xa-năng-già-la. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta muốn ở lại tại đây nửa tháng để tọa thiền. Các Tỳ-kheo chớ lui tới nữa, trừ người mang thức ăn, [22] và khi bố-tát.”
Rồi Phật tọa Thiền, không du hành nữa.
Bấy giờ, qua nửa tháng, Thế Tôn trải tọa cụ ngồi trước đại chúng, và bảo các Tỳ-kheo:
“Khi Ta, bằng một phần ít thiền của thiền pháp được tư duy khi mới thành Phật, nay trong tháng này, tư duy rằng: Sự sanh khởi của tất cả cảm thọ của chúng sanh đều có nhân duyên, không phải không có nhân duyên.
“Những gì là nhân duyên? Dục là nhân duyên, tầm[23] là nhân duyên, xúc là nhân duyên.[24] Này các Tỳ-kheo, nơi dục không tịch diệt, tầm không tịch diệt, xúc không tịch diệt, do nhân duyên này mà cảm thọ của chúng sanh phát sinh. Do nhân duyên không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sinh.
“Ở đó nếu dục tịch diệt, nhưng tầm không tịch diệt, xúc không tịch diệt,[25] do nhân duyên này mà cảm thọ của chúng sanh phát sinh. Do nhân duyên không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sinh. 
“Ở đó nếu dục tịch diệt, tầm tịch diệt, nhưng xúc không diệt tận,[26] do nhân duyên này mà cảm thọ của chúng sanh phát sinh. Do nhân duyên không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sinh. 
“Ở đó dục tịch diệt, tầm tịch diệt, xúc tịch diệt;[27] do nhân duyên đó mà cảm thọ của chúng sanh pháp sanh; tức là do nhân duyên tịch diệt kia [122c] cảm thọ của chúng sanh phát sanh. [28]
“Do nhân duyên tà kiến nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh. Do nhân duyên tà kiến không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh; do nhân duyên tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà giải thoát, và tà trí, nên cảm thọ của chúng sanh pháp sanh. Do nhân duyên tà trí không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh.
“Do nhân duyên chánh kiến nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh. Do nhân duyên chánh kiến tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh; do nhân duyên chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, và chánh trí nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh; do nhân duyên chánh trí tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh.
“Nếu dục kia chưa đạt được nay để đạt được, chưa thu hoạch nay để thu hoạch, chưa chứng nay để chứng, do nhân duyên này mà cảm thọ của chúng sanh phát sanh. Do nhân duyên tịch diệt kia nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh.[29] Đó gọi là do nhân duyên không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh; và do nhân duyên tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh.
“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào, không biết như thật đối với duyên duyên, sự tập khởi của duyên duyên, sự diệt tận của duyên duyên; con đường đưa đến sự tập khởi của duyên duyên, con đường đưa đến sự diệt tận của duyên duyên như vậy thì, người này không phải là Sa-môn của Sa-môn, không phải Bà-la-môn của Bà-la-môn, không đồng với Sa-môn của Sa-môn, không đồng với Bà-la-môn của Bà-la-môn, không đúng nghĩa Sa-môn, không đúng nghĩa Bà-la-môn, ngay trong hiện tại không tự tri, tự tác chứng, tự biết rằng: ‘Sự sanh của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’
“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà biết như thật đối với duyên duyên, sự tập khởi của duyên duyên, sự diệt tận của duyên duyên; con đường đưa đến sự tập khởi của duyên duyên, con đường đưa đến sự diệt tận của duyên duyên như vậy thì, người này là Sa-môn của Sa-môn, là Bà-la-môn của Bà-la-môn, đồng với Sa-môn của Sa-môn, đồng với Bà-la-môn của Bà-la-môn, đúng nghĩa Sa-môn, đúng nghĩa Bà-la-môn, ngay trong hiện tại tự tri, tự tác chứng, tự biết rằng: ‘Sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ 
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.


[1] Đại chánh, kinh 472. S. 36. 14. Āgāraṃ.
[2] Xem cht. 23, kinh 470.
[3] Đại chánh, kinh 473. S. 36. 11. Rahogataka (Ẩn dật).
[4] Độc nhất tĩnh xứ 獨一靜處. Pāli: rahogata, sống ẩn dật, độc cư.
[5] Đại chánh, kinh 474. S. 36. 15-16. Santakaṃ.
[6] Tiệm thứ tịch diệt 漸次寂. Pāli: anupubbasaṃkhārāṇaṃ nirodho, sự biến mất của các hành theo tuần tự.
[7] Tiệm thứ chỉ tức 漸次止息. Pāli: anupubbasaṃkharaṇaṃ vūpasamo, lần lượt đình chỉ, an tĩnh.
[8] Nguyên Hán: Chánh thọ 正受, đây hiểu là chứng nhập. Pāli: samāpanna thường được dịch là đạt đến, hay nhập.
[9] Giác quán 覺觀. Pāli: vitakkavicāra.
[10] Thiền thứ ba được gọi là “Ly hỷ diệu lạc địa” (thân cảm giác lạc vi diệu do đã loại bỏ hỷ).
[11] Nguyên Hán: Không nhập xứ 空入處.
[12] Nguyên Hán: Thức nhập xứ 入處.
[13] Đại chánh, kinh 475. Trí đời trước. Pāli, S. 36. 24. Pubbaññāṇa.
[14] Đại chánh, kinh 476. S. 36. 23. Bhikkhu.
[15] Đại chánh, kinh 477. Những câu hỏi của A-nan.
[16] Đại chánh, kinh 478.
[17] Đại chánh, kinh 479.
[18] Nguyên bản: A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.
[19] Đại chánh, kinh 480. S. 36. 26-28. Samaṇa-brāhamaṇa.
[20] Đại chánh, kinh 481. Pāli, S. 54. 11. Icchānaṅgala.
[21] Nhất-xa-năng-già-la lâm 壹奢能伽羅林. Pāli: Icchānaṅgalavāna.
[22]Hán: vật phục du hành duy trừ khất thực勿復遊行唯除乞食. Có sự nhầm lẫn trong đoạn này. Xem kinh Đại chánh 807.  Cf. S. 54. 11: nāmhi kenaci upasaṅkamitabbo, aññatra ekena piṇḍapātanīhārakena, đừng ai đến chỗ Ta, trừ một người mang thức ăn đến.
[23] Giác, đây chỉ tầm, hay tư duy tầm cầu. Xem cht. tiếp theo.
[24] Du-già 96 (tr. 851b28): Có ba nhân duyên sanh thọ: dục đối với đời vị lai; tầm đối với đời quá khứ; xúc đối với đời hiện tại.
[25] Từ sơ thiền trở lên, dục đã tịch tĩnh nhưng còn tầm (một chi trong sơ thiền) và xúc thì chưa.
[26] Từ thiền thứ hai cho đến phi tưởng phi phi tưởng, dục và tầm đều đã tịch tĩnh, nhưng xúc thì chưa.
[27] Vượt qua Hữu đảnh, tất cả đều tịch tĩnh.
[28] Du-già ibid.: Hạng chúng sanh trụ nội phát, nhập xuất thế định, nhưng chưa đạt đến cứu cánh do đó khởi lên ước vọng bao giờ chứng đắc; cảm thọ do đó sanh khởi.
[29] Hạng đã đạt cứu cánh, các duyên đều tịch tĩnh, phát sanh cảm thọ vô thượng của đệ nhất tịch tĩnh.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Hai, 17 tháng 10, 2011
0 nhận xét
categories: | | edit post


KINH 461. TAM GIỚI[1]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-diệm-di[2]. Bấy giờ gia chủ Cù-sư-la đi đến chỗ Tôn giả A-nan, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan, rồi lui ngồi qua một bên, bạch Tôn giả A-nan:
 “Nói là nhiều chủng loại giới. Vậy thế nào là nhiều chủng loại giới?”
Tôn giả A-nan bảo gia chủ Cù-sư-la:
“Có ba giới. Những gì là ba? Đó là Sắc giới, Vô sắc giới, Diệt giới.[3]
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói bài kệ:
Nếu chúng sanh Sắc giới,
Và trụ Vô sắc giới,
Mà không biết Diệt giới,
Thì lại thọ các hữu.
Nếu đoạn được sắc giới,
Không trụ vô sắc giới,
Diệt giới, tâm giải thoát,
Thì xa lìa sanh tử.
Khi Tôn giả A-nan nói kinh này xong, gia chủ Cù-sư-la tùy hỷ, vui mừng [118b] làm lễ mà lui.

KINH 462. TAM GIỚI (3)[4]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-diệm-di. Bấy giờ gia chủ Cù-sư-la đi đến chỗ Tôn giả A-nan, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan, rồi lui ngồi qua một bên, bạch Tôn giả A-nan:
 “Nói là nhiều chủng loại giới. Vậy thế nào là nhiều chủng loại giới?”
Tôn giả A-nan bảo gia chủ Cù-sư-la:
 “Có ba giới xuất ly, đó là xuất ly từ dục giới cho đến sắc giới, và xuất ly từ sắc giới cho đến vô sắc giới. Ở đây, tất cả các hành, tất cả những tư tưởng về giới đều dứt hết. Đó gọi là ba thứ giới cần xuất ly.“
Rồi Tôn giả nói bài kệ:
Biết xuất ly Dục giới,
Vượt luôn khỏi Sắc giới,
Tất cả hành tịch diệt,
Siêng tu, chánh phương tiện.
Đoạn trừ tất cả ái,
Tất cả hành diệt tận.
Biết tất cả hữu dư,
Không xoay chuyển lại hữu.
Khi Tôn giả A-nan nói kinh này xong, gia chủ Cù-sư-la tùy hỷ vui mừng làm lễ mà lui.

KINH 463. ĐỒNG PHÁP[5]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-diệm-di. Bấy giờ Tôn giả A-nan đi đến chỗ vị Thượng tọa tên là Thượng Tọa[6]. Khi đến nơi ấy Tôn giả cung kính thăm hỏi, rồi ngồi lui qua một bên, bạch vị Thượng tọa tên là Thượng Tọa:
“Nếu có Tỳ-kheo ở nơi vắng vẻ, dưới bóng cây, hay ở trong tăng xá yên tĩnh tư duy, nên bằng pháp gì để chuyên tinh tư duy?”
Thượng tọa đáp:
“Này Tôn giả A-nan, nếu người nào ở chỗ vắng vẻ, dưới bóng cây hay trong tăng xá yên tĩnh, nên bằng hai pháp này để chuyên cần tư duy, đó là chỉ và quán[7].
Tôn giả A-nan lại hỏi Thượng tọa:
“Tu tập chỉ, sau khi tu tập nhiều, sẽ thành tựu được pháp gì? Tu tập quán, sau khi tu tập nhiều, sẽ thành tựu được pháp gì?”
Thượng tọa trả lời Tôn giả A-nan:
“Tu tập chỉ, cuối cùng thành tựu được quán. Tu tập quán, cũng thành tựu được chỉ. Nghĩa là Thánh đệ tử tu tập gồm cả chỉ và quán, chứng đắc các giải thoát giới.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Bạch Thượng tọa, thế nào là các giải thoát giới?”
Thượng tọa đáp:
“Này Tôn giả A-nan, đoạn giới, vô dục giới, diệt giới, đó gọi là các giải thoát giới.”
Tôn giả A-nan lại hỏi Thượng tọa:
“Thế nào là đoạn giới cho đến diệt giới?”
Thượng tọa đáp:
“Này Tôn giả A-nan, đoạn tất cả hành, đó gọi là đoạn giới. Đoạn trừ ái [118c] dục, đó là vô dục giới. Tất cả hành diệt, gọi là diệt giới.”
Tôn giả A-nan sau khi nghe Thượng Tọa nói xong, tùy hỷ hoan hỷ rồi đi thẳng đến chỗ năm trăm Tỳ-kheo. Sau khi cung kính hỏi thăm,Tôn giả ngồi lui qua một bên, bạch với năm trăm vị Tỳ-kheo:
“Nếu Tỳ-kheo nào trong lúc ở chỗ vắng vẻ, dưới bóng cây hay trong tăng xá yên tĩnh tư duy, nên bằng pháp gì để chuyên tinh tư duy?”
Bấy giờ năm trăm Tỳ-kheo trả lời Tôn giả A-nan:
“Nên bằng hai pháp chuyên cần mà tư duy.” Chi tiết, cho đến, “diệt giới,” như vị Thượng tọa đã nói trên kia.
Tôn giả A-nan sau nghe năm trăm vị Tỳ-kheo nói như vậy, hoan hỷ tùy hỷ, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nếu Tỳ-kheo ở chỗ vắng vẻ, dưới bóng cây hay trong tăng xá yên tĩnh mà tư duy, nên bằng phương pháp gì để chuyên cần tư duy?”
Phật bảo A-nan:
“Nếu Tỳ-kheo nào ở nơi vắng vẻ, dưới bóng cây, hay trong tăng xá yên tĩnh mà tư duy, nên bằng hai pháp để chuyên cần tư duy.” Chi tiết, cho đến, “diệt giới,” như năm trăm Tỳ-kheo đã nói.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Bậc Đạo sư và các đệ tử tất cả đều đồng một pháp, đồng văn cú, đồng một nghĩa, đồng một vị. Hôm nay con đến Thượng tọa có tên là Thượng Tọa hỏi nghĩa này, Tôn giả ấy cũng đem nghĩa này, văn cú này, vị này giải đáp cho con, như những gì Thế Tôn đã nói hiện tại. Con lại đến chỗ năm trăm Tỳ-kheo cũng đem nghĩa này, văn cú này, vị này hỏi năm trăm Tỳ-kheo, họ cũng đem nghĩa này, câu này, vị này mà đáp, như những gì Thế Tôn đã nói hiện tại. Cho nên biết rằng, Thầy và đệ tử, tất cả đều đồng một pháp, đồng văn cú, đồng một nghĩa, đồng một vị.”
Phật bảo Tôn giả A-nan:
“Ngươi có biết vị Thượng tọa này là Tỳ-kheo như thế nào không?”
A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, con không biết.”
Phật bảo Tôn giả A-nan:
“Thượng tọa này là A-la-hán, các lậu đã dũ sạch, đã vứt bỏ gánh nặng, đạt được chánh trí, tâm khéo giải thoát. Năm trăm vị Tỳ-kheo kia cũng đều như vậy.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 464. TRƯỚC SỬ[8]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Tôn giả La-hầu-la đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, biết cái gì, thấy cái gì, để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn[9]?”
Phật bảo La-hầu-la:
“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.
“ Tỳ-kheo đối với những gì thuộc địa giới, hoặc quá [119a] khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc đẹp, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, mà biết như thật, tất cả những thứ đó đều không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Đối với thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới, lại cũng như vậy.
“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, ở trong thân có thức này của chính mình, và trong tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài, không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn.
“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo ở trong thân có thức này, và trong tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn, đó gọi là dứt sự ràng buộc của ái, dứt các kiết sử, đoạn trừ ái, dừng kiêu mạn, đắc hiện quán, đoạn tận khổ biên.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả La-hầu-la nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

8. THỌ TƯƠNG ƯNG[10]

[119a11] KINH 465. XÚC NHÂN[11]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Tôn giả La-hầu-la đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, biết cái gì, thấy cái gì, để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn?”
Phật bảo La-hầu-la:
“Có ba thứ thọ; đó là khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Ba thọ này do nhân gì, tập gì, sanh gì, chuyển gì? Có nghĩa là ba thọ này, xúc là nhân, là tập, là sanh, là chuyển. Do xúc nhân như thế này thế kia sanh các thọ như thế này thế kia. Nếu xúc thế này thế kia diệt, thọ thế này thế kia cũng diệt, tĩnh chỉ, thanh lương, tịch tĩnh. Biết như vậy, thấy như vậy thì để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả La-hầu-la nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 466. KIẾM THÍCH[12]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Tôn giả La-hầu-la đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, biết cái gì, thấy cái gì, để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn?”
Phật bảo Tôn giả A-nan:
“Có ba thứ thọ; đó là khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Quán sát lạc thọ mà tưởng là khổ; quán sát khổ thọ mà tưởng là kiếm đâm; quán sát không khổ không lạc thọ mà tưởng là vô thường. Nếu Tỳ-kheo quán sát lạc thọ mà tưởng là khổ, [119b] quán sát khổ thọ mà tưởng là kiếm đâm, quán sát không khổ không lạc thọ mà tưởng là vô thường, hoại diệt, đó gọi là chánh kiến.”
Sau đó Thế Tôn nói bài kệ:
Quán vui tưởng là khổ,
Khổ thọ như kiếm đâm,
Đối với không khổ vui,
Tu tưởng vô thường, diệt,
Đó gọi là Tỳ-kheo,
Thành tựu được chánh kiến.
Đạo an vui tịch diệt,
Trụ nơi tối hậu biên,
Vĩnh viễn lìa phiền não,
Dẹp tan chúng quân ma.
Phật nói kinh này xong, Tôn giả La-hầu-la sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 467. TAM THỌ[13]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà thành Vương Xá. Bấy giờ Tôn giả La-hầu-la đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, biết cái gì, thấy cái gì, để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng trạng thuộc cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn?”
Phật bảo Tôn giả La-hầu-la:
“Có ba thứ thọ; đó là khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Khi quán sát lạc thọ, vì muốn dứt trừ tham sử[14] đối lạc thọ, nên ở nơi Ta mà tu phạm hạnh; vì muốn dứt trừ sân nhuế sử[15] đối với khổ thọ, nên ở nơi Ta mà tu phạm hạnh; vì muốn dứt trừ ngu si sử[16] dối với bất khổ bất lạc thọ, nên ở nơi Ta mà tu phạm hạnh.
“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo đối với kết sử tham nơi lạc thọ đã dứt trừ, đã biết; đối với kết sử sân nhuế nơi khổ thọ đã dứt trừ, đã biết; đối với kết sử si nơi bất khổ bất lạc thọ đã dứt trừ, đã biết; đó gọi là Tỳ-kheo đã đoạn trừ ái dục, bứt các kết buộc, diệt kiêu mạn[17], đạt cứu cánh khổ biên. ”
Sau đó đức Thế Tôn nói bài kệ:
Khi cảm nhận lạc thọ,
Thì không biết lạc thọ
Bị tham sử sai khiến,
Không thấy đường xuất ly.
Lúc cảm nhận khổ thọ,
Thì không biết khổ thọ
Bị sân nhuế sai sử,
Không thấy đường xuất ly.
Thọ không vui không khổ,
Đấng Chánh giác đã nói,
Nếu không khéo quán sát,
Quyết không qua bờ kia.
Tỳ-kheo cần tinh tấn,
Chánh tri không động chuyển[18],
[119c]Như tất cả thọ này,
Người trí thường hiểu biết.
Người hiểu biết các thọ,
Hiện tại hết các lậu,
Người trí sáng mạng chung,
Không liệt vào danh số,[19]
Danh số đã dứt tuyệt,
Thường nhập Niết-bàn lạc.
Phật nói kinh này xong, Tôn giả La-hầu-la nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 468. THÂM HIỂM[20]

Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà nơi thành Vương Xá. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Biển lớn sâu hiểm[21]. Đó là cái sâu hiểm mà người ngu ở thế gian này thường nói, không phải là sâu hiểm được nói trong pháp luật của Hiền thánh. Những gì mà thế gian nói về sự sâu hiểm thì đó chỉ là sự tích tụ số lượng nước nhiều mà thôi. Nếu các thọ phát sinh từ thân, các khổ bức bách, hoặc bị khốn quẫn, hoặc chết; đó mới gọi là nơi sâu hiểm vô cùng của biển lớn.
“Phàm phu ngu si không học, ở nơi các thọ phát sinh từ thân, các khổ bức bách, hoặc bị khốn quẫn, hoặc chết, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu la, tâm loạn phát cuồng, mà trường kỳ chìm đắm, không chỗ dừng nghỉ.
“Đa văn Thánh đệ tử, ở nơi các thọ phát sinh từ thân, các khổ bức bách, hoặc bị khốn quẫn, hoặc chết, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu la, tâm loạn phát cuồng, mà không chìm đắm sanh tử, được chỗ dừng nghỉ.”
Sau đó đức Thế Tôn nói bài kệ:
Thân sinh các khổ thọ,
Bức bách cho đến chết,
Sầu bi không chịu nỗi,
Than khóc, phát cuồng loạn.
Tâm tự sinh khốn quẫn,
Chiêu tập các khổ tăng,
Mãi chìm biển sanh tử,
Nào biết chỗ dừng nghỉ.
Xả các thọ nơi thân,
Khổ não sinh từ thân,
Bức bách cho đến chết,
Không khởi tưởng buồn lo,
Không than khóc kêu gào,
Thường nhẫn thọ các khổ,
Tâm không sinh chướng ngại,
Chiêu tập các khổ tăng,
Không chìm đắm sanh tử,
Quyết được nơi an ổn.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 469. TIỄN[22]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Phàm phu ngu si không học [120a] sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Đa văn Thánh đệ tử cũng sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Này các Tỳ-kheo, như vậy giữa phàm phu và Thánh nhơn có gì sai khác?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói đầy đủ. Các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ thực hành.”
Phật bảo các Tỳ-kheo tiếp:
“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.
“Này các Tỳ-kheo, phàm phu ngu si không học, vì thân xúc chạm sinh các thọ, tăng thêm các khổ đau, cho đến bị cướp mất mạng sống, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu gào, tâm sinh cuồng loạn. Ngay lúc đó hai thọ tăng trưởng, là thân thọ, và tâm thọ. Như có người thân bị trúng hai mũi tên độc, vô cùng đau đớn. Phàm phu ngu si không học lại cũng như vậy. Hai thọ tăng trưởng: thân thọ, tâm thọ vô cùng đau đớn, khổ sở. Vì sao? Vì phàm phu ngu si không học này không biết rõ, nên ở nơi ngũ dục mà phát sanh cảm xúc lạc thọ, lãnh thọ năm thứ dục lạc. Do lãnh thọ năm thứ dục lạc nên bị tham sử sai khiến[23]. Vì xúc chạm cảm thọ khổ nên sinh sân nhuế. Vì nổi sân nhuế nên bị nhuế sử sai khiến[24]. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại, và xuất ly của hai thọ này mà không biết như thật, vì không biết như thật nên sinh cảm thọ không khổ không lạc, bị si sử sai khiến. Nó bị lạc thọ trói buộc, mãi không thể lìa[25]; bị khổ thọ trói buộc, trọn không thể lìa; bị cảm thọ không khổ không lạc trói buộc, cuối cùng không thể lìa.
“Cái gì trói buộc? Bị tham, nhuế, si trói buộc; bị sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ trói buộc.”
“Đa văn Thánh đệ tử, thân xúc sinh khổ thọ, khổ lớn bức bách… cho đến cướp mất sinh mạng, mà không khởi lo buồn, thán oán, khóc lóc, kêu gào, loạn tâm phát cuồng. Ngay lúc đó chỉ sinh một thứ thọ, đó là thân thọ, chứ không sinh tâm thọ. Như người bị một mũi tên độc, không bị mũi tên độc thứ hai, ngay khi đó chỉ sinh có một cảm thọ, đó là thân thọ mà không sinh tâm thọ. Khi xúc chạm lạc thọ, không nhiễm dục lạc. Vì không nhiễm dục lạc nên đối với lạc thọ này, tham sử không sai khiến. Khi xúc chạm khổ thọ, không sinh sân nhuế; vì không sinh sân nhuế, nên nhuế [120b] sử không thể sai khiến. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại, sự xuất ly của hai sử này mà biết như thật thì, vì biết như thật cảm thọ không khổ không lạc, nên si sử không thể sai khiến được. Đối với lạc thọ được giải thoát, không bị trói buộc; khổ thọ, và không khổ không lạc thọ cũng được giải thoát, không bị trói buộc.
“Không bị cái gì trói buộc? Tham, nhuế, si không trói buộc; sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ không trói buộc.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:
Đa văn đối khổ vui,
Không phải không cảm giác;
So với kẻ không học,
Người này thật xa khác[26].
Thọ lạc, không buông lung,
Gặp khổ không tăng sầu;
Khổ vui thảy đều bỏ,
Không thuận cũng không trái.
Tỳ-kheo siêng phương tiện,
Chánh trí không khuynh động[27],
Đối với các thọ này,
Trí tuệ thường biết rõ.
Vì biết rõ các thọ,
Hiện tại sạch các lậu,
Thân chết, không danh sốc[28],
An trú đại Niết-bàn.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 470. HƯ KHÔNG[29]

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Như giữa hư không, gió lộng từ bốn phương thổi đến như: gió có bụi bặm, gió không bụi bặm, gió tỳ-thấp-bà[30], gió tỳ-lam-bà[31], gió mỏng, gió dày, cho đến phong luân gió dậy. Gió cảm thọ trong thân cũng như vậy. Đủ các thứ thọ khởi lên như: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ. Đó là những cảm thọ lạc của thân, cảm thọ khổ của thân, cảm thọ không khổ không lạc của thân; cảm thọ lạc của tâm, cảm thọ khổ của tâm, cảm thọ không khổ không lạc của tâm; cảm thọ thực vị lạc[32], cảm thọ thực vị khổ, cảm thọ thực vị không khổ không lạc; cảm lạc thọ phi thực vị, cảm thọ khổ phi thực vị, cảm thọ không khổ không lạc phi thực vị; cảm thọ lạc do tham, cảm thọ khổ do tham, cảm thọ không khổ không vui do tham; cảm thọ lạc xuất ly, cảm thọ khổ xuất ly, cảm thọ không khổ không lạc xuất ly.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:
Như ở giữa hư không,
Các gió cuồng nổi dậy,
Gió đông, tây, nam, bắc,
Bốn phương đều như vậy.
Có bụi và không bụi,
Cho đến phong luân khởi.
Cũng vậy trong thân này,
Các thọ cũng dấy lên.
[120c] Hoặc lạc, hoặc khổ thọ,
Và không khổ không lạc,
Vật dục, phi vật dục,
Tham trước không tham trước.
Tỳ-kheo siêng phương tiện,
Chánh trí không lay động[33],
Đối với các thọ này,
Trí tuệ thường biết rõ.
Vì biết rõ các thọ,
Hiện tại sạch các lậu,
Thân chết, không danh sốc[34],
An trụ Bát Niết-bàn.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.


[1] Đại chánh, kinh 462.
[2] Câu-diệm-di Cù-sử-la viên 拘睒彌國瞿師羅, một tinh xá do Cù-sử-la (Pāli: Ghosita) dựng ở Câu-diệm-di (Kosambī).
[3] Cf. It. 51: tisso dhātuyo: rūpadhātu, ārūpadhātu, nirodhadhātu.
[4] Đại chánh, kinh 463.
[5] Đại chánh, kinh 464.
[6] Thượng tọa Thượng Tọa danh giả 上座上座名者. Không rõ Pāli.
[7] Chỉ và quán. Pāli: samatha, vipassanā (xa-ma-tha, tỳ-bát-xa-na)
[8] Đại chánh, kinh 465. S. 18. 21. Anusaya; tham chiếu S. 22. 91. Rāhulo.
[9] Ngã, ngã sở kiến, ngã mạn hệ trước sử. Pāli: ahaṃkāramamaṃkāramāmānusayā, các tùy miên ngã, ngã sở và mạn.
[10] Ấn Thuận Hội biên, Tụng iii. 6. Tương ưng thọ, gồm các kinh 466-489, nửa sau quyển 17 của Đại chánh hiện hành. Tương đương Pāli, S. 36. Vedanā-saṃyutta.
[11] Đại chánh, kinh 466. Pāli, S. 36. 10 Phassamūlaka.
[12] Đại chánh, kinh 467. Gươm đâm. Pāli, S. 36. 5. Daṭṭhabbena.
[13] S. 36. 3. Pahānena.
[14] Tham sử, tức tham tùy miên. Pāli: rāgānusayo.
[15] Sân nhuế sử, hay sân tùy miên. Pāli: paṭighānusayo.
[16] Si sử, hay si tùy miên. Pāli: avjjānusayo, vô minh tùy miên.
[17] Mạn vô gián 慢無間; Pāli: mānābhisamaya, hiện quán mạn, hiểu rõ mạn, làm đình chỉ, tiêu vong mạn.
[18] Pāli: saṃpajaññaṃ na riñcati, không bỏ chánh trí. Pāli: riñcati, rời, chối bỏ, phủ nhận; bản Hán đọc là iñjati: dao động.
[19] Hán: Bất đọa ư chúng số 不墮於眾數. Pāli: kāyassa bhedā dhamaṭṭho saṃkhyaṃ nopeti vedagū ti, bậc Pháp trụ, vị hiền trí, khi thân hoại, không thể mô tả.
[20] Đại chánh, kinh 469. Sâu thẳm, hiểm trở, chỉ vực thẳm. S. 36. 4. Pātāla.
[21] Hán: Đại hải thâm hiểm 大海深嶮. Pāli: atthi mahāsamudde pātālo’ti, trong biển cả có vực thẳm.
[22] Đại chánh, kinh 470. Mũi tên. Pāli, S. 36. 6. Sallattena.
[23] Vi tham sử sở sử. Pāli: yo sukhāya vedanāya rāgānusayo so anuseti, tiềm phục tham tùy miên đối với cảm thọ lạc.
[24] Pāli: yo dukkhāya vedanāya paṭighānusayo so anuseti, đối với cảm thọ khổ, sân tùy miên tiềm phục.
[25] Pāli: so sukhañce vedanaṃ vedayati, saññutto naṃ vedayati; nếu nó cảm giác lạc. nó cảm giác bị cái đó trói buộc.
[26] Trong nguyên bản: đại văn 大聞; sửa lại là đại gián 大間: cách biệt rất lớn.
[27] Xem cht. 9, kinh 467.
[28] Hán: bất đọa số, xem cht. 10 kinh 467.
[29] Đại chánh, kinh 471. S. 36. 12. Ākāsa.
[30] Tì-thấp-bà phong 毘濕波; Pāli không có. Có lẽ Phạn: viśvavāta, gió mạnh.
[31] Tì-lam-bà phong 鞞嵐婆風; Pāli: verambhavāta, não. Bản Pāli không kể.
[32] Lạc thực thọ 樂食受. Pāli: sāmisāpi sukhā vedanā, cảm thọ lạc của da thịt, của vị ái nhiễm (sa-āmisa: có thịt; nhục thể, xác thịt, vật chất).
[33] Xem cht. 9 kinh 467.
[34] Xem cht. 10 kinh 467.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011
0 nhận xét
categories: | | edit post

nhạc nền

VIDEO - PHIM ẢNH

About Me

Ảnh của tôi
Vietnam
Từ vô thỉ ta luân hồi cát bụi, Vẫn miệt mài bám lấy cõi trần gian; Vẫn hít thở âm thầm yêu cuộc sống, Trần gian ơi nghe cát bụi mơ màn. Theo khát vọng ta trầm luân gót mỏi, Đếm đường dài vết cũ bụi chưa tan; Ngoảnh mặt lại khói sương mờ phong kín, Đường qua đi mất dấu tự phương ngàn. Ta dong ruỗi lạc loài theo nắng sớm, Cùng mưa chiều tan nát mộng dưới chân; Đất khẽ gọi con gió chiều đi vắng, Về tự tình đưa tiễn mộng nghìn năm. Nghe tan vỡ từ vô thường hoa nở, Nắng nghìn năm trưa buồn lạ trong hồn; Chiều ủ rũ qua nắng tàn trăng hiện, Từng giọt vàng rơi cõi đất mông lung. Vẫn hiện thực qua sắc màu biến đổi, Chuyện trăng tàn nhớ bóng ráng chiều phong; Tựa hơi thở buồn vui nào biết nổi, Cả một đời qua sinh diệt thời gian. Chợt một sớm rảnh rang nhìn đất thở, Đá cựa mình nghe dao động không gian; Như hoa đớm hạt nắng vàng ảo hóa, Giọt mong manh từng giọt đẹp vô ngần. Theo duyên hiện hóa thân vào vô tận, Duyên trùng trùng cho đến mãi vô chung.