KINH 181. DỤC ĐỊNH
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu dục định đoạn hành thành tựu như ý túc . Vậy nên đoạn trừ những pháp vô thường nào? Để đoạn trừ sắc vô thường; đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường; cho nên tu dục định đoạn hành thành tựu như ý túc.
Chi tiết như kinh đã nói,... cho đến:
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng nói như trên như vậy.
Như kinh tu dục định, ba mươi hai kinh nói về tinh tấn định, ý định, tư duy định cũng như vậy. Như ba mươi hai kinh nói về nên đoạn trừ, ba mươi hai kinh nói về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tân, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.
KINH 182. TÍN CĂN
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì muốn đoạn trừ lửa vô thường, nên tu tín căn. Vậy nên đoạn trừ những pháp vô thường nào? Đoạn trừ sắc vô thường, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường, nên tu tín căn.” Nói chi tiết như vậy,... cho đến:
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như kinh nói về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện [47b] tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường cũng dạy như trên.
Như tám kinh nói về tín căn, tám kinh nói về tu tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng dạy như trên như vậy.
Như bốn mươi kinh nói về nên đoạn trừ, bốn mươi kinh nói về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.
KINH 183. TÍN LỰC
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì muốn đoạn trừ lửa vô thường, nên tu tín lực. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu tín lực ? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu tín lực; đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu tín lực.” Nói chi tiết như trên,... cho đến:
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.
Như kinh dạy về tín lực, tám kinh dạy về tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực cũng dạy như trên như vậy.
Như bốn mươi kinh dạy về đoạn trừ, trong mỗi một kinh của bốn mươi kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.
KINH 184. NIỆM GIÁC PHẦN
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu niệm giác phần. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu niệm giác phần? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu niệm giác phần, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, [47c] thức vô thường nên tu niệm giác phần.” Chi tiết như trên,... cho đến:
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.
Như tám kinh dạy về niệm giác phần, trong mỗi một kinh của tám kinh dạy về trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phần, trừ giác phần, xả giác phần, định giác phần cũng dạy như trên như vậy.
Như năm mươi sáu kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của năm mươi sáu kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.
KINH 185. CHÁNH KIẾN
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu chánh kiến. Vậy để đoạn trừ những thứ lửa vô thường nào phải tu chánh kiến? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu chánh kiến; đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu chánh kiến.” Chi tiết như trên,... cho đến:
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.
Như tám kinh dạy về chánh kiến, trong mỗi một kinh của tám kinh dạy về chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định cũng dạy như trên.
Như sáu mươi bốn kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của sáu mươi bốn kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.
KINH 186. KHỔ TẬP TẬN ĐẠO
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như có người bị lửa đốt [48a] đầu và áo, phải làm sao để cứu?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu Khổ-Tập-Tận-Đạo. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu Khổ-Tập-Tận-Đạo? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu Khổ-Tập-Tận-Đạo, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu Khổ-Tập-Tận-Đạo.” Chi tiết như trên, ... cho đến:
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.
Như tám kinh dạy về Khổ-Tập-Tận-Đạo, trong mỗi một kinh của tám kinh dạy về khổ tận đạo lạc, phi tận đạo lạc tận đạo cũng dạy như trên như vậy.
Như ba mươi hai kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của ba mươi hai kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.
KINH 187. VÔ THAM PHÁP CÚ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì muốn đoạn trừ lửa vô thường, nên tu pháp cú không tham. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu pháp cú không tham? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu pháp cú vô tham, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu pháp cú vô tham.” Chi tiết như trên,... cho đến:
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.
Như tám kinh dạy về nên tu pháp cú không tham, trong mỗi một kinh của tám khinh dạy về pháp cú, chánh cú, các cú [48b] không nhuế, không si cũng dạy như trên như vậy.
Như hai mươi bốn kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của hai mươi bốn kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.
KINH 188. CHỈ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
‘Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu chỉ. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu chỉ? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu chỉ, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu chỉ.” Chi tiết như trên,... cho đến:
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.
Như tám khinh dạy về tu chỉ, tám kinh dạy về tu quán cũng dạy như trên như vậy.
Như mười sáu kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của mười sáu kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.
Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau, phải biết như thật, và đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Là đa văn Thánh đệ tử phải chánh quán như vậy, thì đối với sắc sẽ sanh ra nhàm chán, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng sanh ra nhàm chán. Khi đã nhàm chán rồi thì sẽ không thích, vì đã không thích nên giải thoát, giải thoát tri kiến: “Sự sanh của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, vui mừng thực hành theo.
Như kinh dạy về vô thường, cũng vậy đối với dao động, chuyển xoay, ốm yếu, bệnh hoạn, phá hoại, bệnh dật dờ, hủ bại, nguy đốn, không thường, không an, biến đổi, khổ não, tai hoạn, ma tà, ma thế, ma khí, như bọt, như bong bóng, như cây chuối, như huyễn; yếu kém tham đắm, đánh giết, [48c] đao kiếm, ganh ghét, tàn sát nhau, tổn giảm, hao suy, trói buộc, đánh đập, ghẻ chóc, ung nhọt, gai nhọn, phiền não, trách phạt, che dấu lỗi lầm, buồn rầu, lo lắng, ác tri thức; khổ, không, chẳng phải ngã, chẳng phải những gì thuộc về ngã, oan gia vây bủa, chẳng phải nghĩa, chẳng phải an ủi, nhiệt não, không bóng mát, không chỗ ở, không che dấu, không nương tựa, không bảo vệ; pháp sanh, pháp già, pháp bệnh, pháp chết, pháp ưu bi, pháp khổ não, pháp không sức, pháp yếu kém, pháp không thể muốn, pháp dụ dẫn, pháp nuôi dưỡng, có pháp khổ, có pháp giết, có pháp não, có pháp nhiệt, có pháp tướng, có pháp thổi, có pháp giữ, có pháp thâm hiểm, pháp khó khăn, pháp bất chánh, pháp hung bạo, có pháp tham, có pháp nhuế (sân), có pháp si, pháp không trụ, pháp đốt cháy, pháp chướng ngại, pháp tai ương, pháp tập hợp, pháp tiêu diệt, pháp đống xương, pháp cục thịt, pháp cầm đuốc, pháp hầm lửa, như rắn độc, như mộng, như vay mượn, như trái cây, như kẻ mổ bò (đồ tể), như kẻ giết người, như sương dính, như nước sâu, như dòng chảy siết, như sợi dệt, như bánh xe đạp nước, như nhảy nhót, như bình độc, như thân độc, như hoa độc, như trái độc, phiền não xung động, cũng như vậy.
Này các Tỳ-kheo, cho đến việc đoạn trừ quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, cần phải tu chỉ-quán. Vậy muốn đoạn trừ những pháp nào trong quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường cho đến (các kinh khác nhau trong liệt kê trên) dứt bặt, cần phải tu chỉ-quán? Vì muốn đoạn trừ sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, cho đến dứt bặt nên tu chỉ-quán. Đối vơi thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Cho nên những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải là ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau phải biết như thật. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Đa văn Thánh đệ tử phải quán như vậy, đối với sắc sẽ sanh ra nhàm chán; đối với thọ, tưởng, hành, thức sanh ra nhàm chán. Vì đã nhàm chán nên sẽ không thích, do không thích nên được giải thoát, giải thoát tri kiến: tự biết “Sự sanh của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, vui mừng thực hành theo.
KINH 189. THAM DỤC
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Vì thành tựu một pháp, nên không thể nhận biết sắc là vô thường; biết thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Một pháp được thành tựu là pháp nào? Tham dục, một pháp được thành tựu, nên không có thể nhận biết sắc là vô thường; biết thọ, tưởng, hành, thức là vô thường.
[49a] “Thành tựu một pháp gì? Đó là thành tựu pháp không tham dục. Thành pháp không tham dục, có thể nhận biết sắc là vô thường; biết thọ, tưởng, hành, thức là vô thường.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như thành tựu và không thành tựu, đối với biết và không biết, thân cận và không thân cận, sáng và không sáng, hiểu và không hiểu, quan sát và không quan sát, suy lường và không suy lường, che dấu và không che dấu, gieo trồng và không gieo trồng, đè nén và không đè nén, che mờ và không che mờ lại cũng như vậy. Biết đã như vậy, hiểu rõ đã như vậy, thì khả năng, mong cầu, biện biệt, tiếp xúc, nhận thật lại cũng như vậy.
Như tham, đối với nhuế, si, sân, hận, mắng chưởi, chấp chặt, ganh ghét, keo kiệt, lừa dối cũng như vậy. Không hổ, không thẹn, mạn, mạn mạn, tăng mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, tà mạn, ty mạn, kiêu mạn, buông lung, kiêu căng, cống cao, quanh co, hình thức dối trá, dụ lợi, ác lợi, muốn nhiều, muốn thường xuyên, muốn không cung kính, miệng ác, tri thức ác, không nhẫn, tham đắm, không tham, ác tham; thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ, dục ái, sân nhuế, thùy miên, trạo hối, nghi, hôn túy, quanh quẹo, nổ lực, lười biếng, loạn tưởng, nhớ nghĩ không đúng, thân bẩn, không ngay thẳng, không dịu dàng, không khác; biết ham muốn, biết sân si, biết tai hại, biết thân thuộc, biết bờ cõi, biết nhẹ dễ, biết yêu nhà người, cùng với sầu ưu, não khổ. Đối với những thứ này tất cả đều bị che mờ, cho đến bị che mờ mà không có năng lực diệt sạch sắc để tác chứng. Pháp ấy là pháp nào? Là pháp khổ não, vì khổ não che mờ nên không có năng lực diệt tận sắc để tác chứng, không có năng lực diệt tận thọ, tưởng, hành, thức để tác chứng. Có một pháp không che mờ, nên có khả năng diệt tận sắc để tác chứng, và có khả năng diệt tận thọ, tưởng, hành, thức để tác chứng. Pháp ấy là pháp nào? Là pháp khổ não, vì pháp này không che mờ nên có khả năng diệt tận sắc để tác chứng, và cũng có khả năng diệt tận thọ, tưởng, hành, thức để tác chứng.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, vui mừng thực hành theo.
TỤNG II. SÁU XỨ
4. TƯƠNG ƯNG SÁU XỨ
[49b7] KINH 190. LY HỶ THAM
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Hãy quán sát chân chánh mắt là vô thường. Quán sát như vậy gọi là chánh kiến. Do chánh quán nên sanh nhàm tởm. Do nhàm tởm nên lìa hỷ, lìa tham. Do lìa hỷ, lìa tham, Ta nói là tâm chánh giải thoát . Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý lìa hỷ, lìa tham. Do lìa hỷ, lìa tham, Ta nói là tâm chánh giải thoát. Tâm chánh giải thoát rồi, có thể tự ghi nhận, tự biết ‘Sự sanh cua ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như kinh nói về “vô thường,” cũng vậy, nói về “khổ, không, phi ngã.”