KINH 211. LỤC XÚC NHẬP XỨ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Am-la của thầy thuốc Kỳ-bà Câu-ma-la tại Tỳ-xá-ly . Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có sáu xúc nhập xứ. Những gì là sáu? Đó là, nhãn xúc nhập xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc nhập xứ. Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với sáu xúc nhập xứ này mà không biết như thật về sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, sự tai hại, và sự xuất ly, nên biết, Sa-môn, Bà-la-môn này cách xa Pháp, Luật của Ta như trời và đất.”
Lúc ấy, có Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục đảnh lễ Phật, rồi chấp tay bạch Phật:
“Con có đầy đủ tri kiến như thật về sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, sự tai hại, và sự xuất ly của sáu nhập xứ này.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Bây giờ, Ta hỏi ngươi, hãy theo câu hỏi của Ta mà trả lời. Này Tỳ-kheo, ngươi có thấy nhãn xúc nhập xứ là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Lành thay! Lành thay! Đối với nhãn xúc nhập xứ này là chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Người nào thấy, biết như thật, không khởi lên các lậu hoặc, tâm không nhiễm đắm, tâm được giải thoát. Đó gọi là xúc nhập xứ đầu tiên [53a] đã đoạn trừ, đã biết rõ, đã đoạn trừ cội gốc của nó như chặt ngọn cây đa-la, đối với pháp vị lai, nhãn thức và sắc vĩnh viễn không khởi lên lại.
“Ngươi có thấy tai, mũi, lưỡi, thân, ý xúc nhập xứ là ngã, khác ngã, ở trong nhau không?”
Đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Lành thay! Lành thay! Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý xúc nhập xứ chẳng phải là ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Người nào biết, thấy như thật như vậy, không khởi lên các lậu hoặc, tâm không đắm nhiễm, tâm đạt được giải thoát. Đó gọi là Tỳ-kheo đối với sáu xúc nhập xứ, đã đoạn trừ được, đã biết rõ, đã đoạn trừ được cội gốc này như chặt ngọn cây đa-la, ý thức và pháp sẽ không còn sanh trở lại ở đời vị lai nữa.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 212. ĐỊA NGỤC
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Am-la của thầy thuốc Kỳ-bà Câu-ma-la tại Tỳ-xá-ly . Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Chớ lạc, chớ khổ. Vì sao? Có địa ngục gọi là Sáu xúc nhập xứ . Chúng sanh, sanh ở trong địa ngục này, mắt chỉ thấy sắc không đáng ưa, chứ không thấy sắc đáng ưa; chỉ thấy sắc không đáng tưởng nhớ, chứ không thấy sắc đáng được tưởng nhớ; chỉ thấy sắc không lành, chứ không thấy sắc lành. Vì những nhân duyên này nên chỉ một mực nhận lãnh buồn khổ mà thôi. Tai đối với thanh, mũi đối với mùi, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, ý thức đối với pháp cũng chỉ thấy không đáng yêu, chứ không thấy đáng yêu; chỉ thấy cái không đáng nhớ, chứ không thấy đáng nhớ; chỉ thấy pháp không lành, chứ không thấy pháp lành. Vì những nguyên nhân này nên luôn luôn phải chịu buồn khổ.
“Này các Tỳ-kheo, có cõi trời gọi là Sáu xúc nhập xứ . Chúng sanh sanh vào nơi này, mắt chỉ thấy sắc đáng yêu, chứ không thấy sắc không đáng yêu; chỉ thấy sắc đáng nhớ, chứ không thấy sắc không đáng nhớ; chỉ thấy sắc lành, chứ không thấy sắc không lành. Vì những nguyên nhân này, nên luôn luôn chỉ cảm nhận vui thích mà thôi. Tai đối với thanh, mũi đối với mùi, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, ý thức đối với pháp là đáng yêu, chứ không phải không đáng yêu; là đáng nhớ, chứ không phải không đáng nhớ; là lành, chứ không phải là không lành.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 213. THẾ GIAN NGŨ DỤC
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở trong vườn Am-la của thầy thuốc Kỳ-bà Câu-ma-la tại Tỳ-xá-ly . Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Xưa kia, khi Ta chưa thành Chánh giác, ở một mình nơi thanh vắng, thiền định tư duy, quán sát xem tự tâm phần nhiều hướng đến nơi nào? Tự tâm phần nhiều chạy theo năm công đức của dục quá khứ, [53b] phần ít chạy theo năm công đức của dục hiện tại, lại càng rất ít chạy theo đời vị lai. Khi Ta quán sát thấy tâm phần nhiều chạy theo năm dục quá khứ, bèn nỗ lực tìm phương tiện, tinh cần tự giữ gìn, không để chạy theo năm công đức của dục quá khứ nữa.
“Do tinh cần tự giữ, nên Ta dần dần đến gần được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác .
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi cũng phần nhiều chạy theo năm công đức của dục quá khứ, còn đối với hiện tại, vị lai lại cũng rất ít. Hiện tại, các ngươi cũng nên vì tâm phần nhiều chạy theo năm công đức của dục quá khứ đó, tăng cường tự phòng hộ, không bao lâu cũng sẽ chứng đắc lậu tận, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời hiện tại này tự tri tự tác chứng, tự biết rằng ‘Sự sanh của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’
Vì sao? Mắt thấy sắc làm nhân duyên sanh ra nội cảm thọ, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với pháp làm nhân duyên sanh ra nội cảm thọ, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui. Cho nên, các Tỳ-kheo, đối với những nhập xứ này cần phải giác tri , khi mắt kia diệt thì sắc tưởng sẽ lìa; tai, mũi, lưỡi, thân, ý diệt thì pháp tưởng sẽ lìa.”
Phật nói cần phải nhận biết sáu nhập xứ rồi, liền vào thất tọa thiền.
Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo, sau khi đức Thế Tôn đi rồi, bàn luận như vầy: “Thế Tôn đã nói gọn pháp yếu cho chúng ta, nhưng không phân tích đầy đủ mà đã vào thất tọa thiền. Thế Tôn bảo rằng: ‘Sáu nhập xứ cần phải giác tri; khi mắt kia diệt thì sắc tưởng sẽ lìa; tai, mũi, lưỡi, thân, ý diệt thì pháp tưởng sẽ lìa.’
“Hiện tại, đối với pháp do đức Thế Tôn đã nói gọn, chúng ta vẫn còn chưa hiểu. Nay ở trong chúng này, ai là người có trí tuệ có thể vì chúng tôi, đối với pháp đã được đức Thế Tôn nói gọn đó, mà vì chúng tôi diễn nói đầy đủ nghĩa của nó?”
Họ lại nghĩ: “Chỉ có Tôn giả A-nan, luôn luôn hầu đức Thế Tôn, thường được Thế Tôn và các vị đồng phạm hạnh có trí khen ngợi. Chỉ có Tôn giả A-nan mới có thể vì chúng ta diễn nói lại nghĩa pháp đã được đức Thế Tôn nói gọn đó. Nay, chúng ta cùng nhau đến chỗ Tôn giả A-nan hỏi về ý nghĩa quan trọng của chúng, và theo những gì Tôn giả A-nan nói tất cả chúng ta sẽ phụng hành.”
Bấy giờ, số đông chúng Tỳ-kheo đi đến chỗ Tôn giả A-nan, cùng nhau thăm hỏi rồi ngồi xuống một bên, bạch Tôn giả A-nan:
“Tôn giả, nên biết cho, đức Thế Tôn vì chúng tôi đã nói gọn pháp yếu, (chi tiết như đã nói ở trên). Xin Tôn giả vì chúng tôi nói đầy đủ nghĩa của chúng.”
Tôn giả A-nan nói với các Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe, [53c] và suy nghĩ kỹ, Tôi sẽ vì các thầy mà nói về pháp đã được đức Thế Tôn nói gọn một cách đầy đủ nghĩa của chúng. “Đức Thế Tôn đã nói tóm gọn chỉ cho việc diệt sáu nhập xứ, còn những điều khác sẽ nói là nhãn xứ diệt thì sắc tưởng sẽ lìa; tai, mũi, lưỡi, thân, ý nhập xứ diệt, thì pháp tưởng sẽ lìa. Đức Thế Tôn nói gọn pháp này xong vào thất thiền định. Nay tôi đã vì các thầy phân tích nghĩa này.”
Tôn giả A-nan nói nghĩa này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Tôn giả đã nói, hoan hỷ phụng hành.
KINH 214. BẤT PHÓNG DẬT
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Ta không nói hạnh không buông lung cho tất cả các Tỳ-kheo, cũng chẳng phải không nói hạnh không buông lung cho tất cả các Tỳ-kheo.
“Ta không nhắm đến những hạng Tỳ-kheo nào để nói hạnh không buông lung? Nếu Tỳ-kheo đã chứng đắc A-la-hán, đã diệt tận các lậu, đã rời bỏ các gánh nặng, đã đạt được mục đích của mình, đã tận trừ các kết sử hữu, tâm chánh giải thoát; đối với hạng Tỳ-kheo như vậy, Ta không vì họ nói hạnh không buông lung. Vì sao? Vì các hàng Tỳ-kheo này đã không buông lung, nên không thể tạo việc buông lung được nữa. Hiện tại Ta thấy các Tôn giả kia đã đạt được quả không buông lung, cho nên không phải vì họ mà nói hạnh không buông lung.
“Vì những hạng Tỳ-kheo nào mà nói hạnh không buông lung? Đó là hàng Tỳ-kheo còn ở học địa, tâm, ý chưa được tăng thượng an ổn, hướng đến an trụ Niết-bàn. Đối với những hàng Tỳ-kheo như vậy, Ta vì họ mà nói hạnh không buông lung. Vì sao? Vì hàng Tỳ-kheo này đang tập học các căn, tâm còn ái lạc theo các phương tiện sinh sống, gần gũi bạn lành, chẳng bao lâu các lậu được đoạn trừ, được vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; ngay trong hiện tại tự tri tự tác chứng, tự biết ‘Sự sanh của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ Vì sao? Vì con mắt của họ nhận thức sắc đáng được yêu thích và đắm trước đó; các Tỳ-kheo này thấy rồi mà không vui, không khen ngợi, không nhiễm, không trói đắm vào. Vì không vui, không khen ngợi, không nhiễm, không bị trói đắm vào, nên nổ lực tinh tấn, thân tâm an chỉ tịch tĩnh, tâm tuyệt đối an trụ không quên, thường định nhất tâm, pháp hỷ không lường, sớm được tam-muội chánh thọ đệ nhất, cuối cùng không còn bị lệ thuộc vào mắt và sắc. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp cũng lại như vậy.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
[54a] KINH 215. PHÁP
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Ta sẽ vì các ngươi diễn nói hai pháp. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ. Hai pháp đó là gì? Nhãn và sắc là hai; tai và thanh, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp là hai. Đó gọi là hai pháp.
“Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào nói như vầy: ‘Đây chẳng phải là hai. Hai pháp mà Sa-môn Cù-đàm nói, đó thật sự không phải là hai.’ Người kia nói hai pháp theo ý của mình, đấy chỉ có trên ngôn thuyết; khi hỏi đến người ấy sẽ không biết, khiến sẽ tăng thêm nghi hoặc cho họ, vì đây chẳng phải là cảnh giới của họ. Vì sao? Duyên vào mắt và sắc sanh ra nhãn thức, do duyên ba sự hòa hiệp này mà có xúc, duyên xúc sanh thọ, hoặc khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc. Ai không biết như thật về sự tập khởi của thọ, về sự diệt tận của cảm thọ, về vị ngọt của cảm thọ, về sự tai hại của cảm thọ, về sự xuất ly cảm thọ này, người gieo trồng tham dục thân xúc, gieo trồng sân nhuế thân xúc, sẽ gieo trồng giới thủ thân xúc, gieo trồng ngã kiến thân xúc; cũng gieo trồng và làm tăng trưởng các ác pháp bất thiện trở thành thuần một tụ khổ lớn như vậy, đều từ sự tập khởi mà sanh ra.
“Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm nhân duyên sanh ra ý thức. Ba sự hòa hiệp là xúc, nói chi tiết như trên.
“Lại nữa, khi nhãn duyên vào sắc sanh ra nhãn thức, cả ba chúng hòa hợp sanh ra xúc, và xúc làm duyên sanh thọ, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui. Khi đã biết về sự tập khởi của cảm thọ, về sự diệt tận của cảm thọ, về vị ngọt của cảm thọ, về sự tai hại của cảm thọ, về sự xuất ly của cảm thọ như vậy rồi, không gieo trồng tham dục thân xúc, không gieo trồng sân nhuế thân xúc, không gieo trồng giới thủ thân xúc, không gieo trồng ngã kiến thân xúc, không gieo trồng các pháp ác bất thiện. Như vậy các pháp ác bất thiện bị tiêu diệt, thuần một tụ khổ lớn cũng bị tiêu diệt. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp lại cũng như vậy.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 216. NHỊ PHÁP
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có hai nhân duyên sanh ra thức. Những gì là hai? Đó là, mắt và sắc; tai và mũi; lưỡi và vị; thân và xúc; ý và pháp. Nói chi tiết như trên, cho đến… chẳng phải là cảnh giới của họ.
“Vì sao? Mắt và sắc làm nhân duyên sanh ra nhãn thức, chúng là pháp hữu vi, vô thường, tâm duyên mà sanh. Hòa hợp ba pháp này là xúc, xúc rồi sanh thọ; thọ rồi sanh tư; tư rồi sanh tưởng. Tất cả những pháp này là pháp hữu vi, vô thường, tâm duyên mà sanh, tức là: xúc, tưởng, tư. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.”
[54b] Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 217. PHÚ-LÂU-NA
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Phú-lưu-na cùng các Tỳ-kheo đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:
“Thế Tôn nói pháp hiện thấy, nói dập tắt sự rực cháy, nói không đợi thời, nói hướng đạo chân chánh, nói chính nơi đây mà thấy, nói duyên tự tâm mà giác ngộ . Vậy, Bạch Thế Tôn thế nào là pháp hiện thấy, cho đến duyên tự tâm mà giác ngộ?
Phật bảo Phú-lưu-na:
“Lành thay! Phú-lưu-na có thể hỏi những điều này. Này Phú-lưu-na, Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.
“Này Phú-lưu-na, mắt thấy sắc rồi giác tri sắc, giác tri sắc tham. Nếu bên trong ta có sự tham ái đối với sắc được nhận thức bởi mắt, thì biết như thật rằng bên trong ta có sự tham ái đối với sắc được nhận thức bởi mắt. Này Phú-lưu-na, nếu mắt thấy sắc rồi giác tri sắc, giác tri sắc tham, biết như thật rằng bên trong ta có sự tham ái đối với sắc được nhận thức bởi mắt. Đó gọi là pháp được hiện thấy .
“Thế nào là dập tắt sự rực cháy? Thế nào là không đợi thời? Thế nào là hướng đạo chân chánh? Thế nào là chính nơi đây mà thấy? Thế nào là duyên tự tâm mà giác ngộ?
“Này Phú-lưu-na, mắt thấy sắc rồi giác tri sắc, nhưng không khởi giác tri sắc tham; biết như thật rằng bên trong ta có sự tham ái đối với sắc được nhân thức nhưng không khởi giác tri sắc tham. Nếu Tỳ-kheo Phú-lưu-na, khi mắt thấy sắc, rồi giác tri sắc, không khởi giác tri sắc tham, và biết như thật về sắc, biết như thật là không khởi giác tri sắc tham; gọi đó là dập tắt sự rực cháy, không đợi thời, hướng đạo chân chánh, chính nơi đây mà thấy, duyên tự tâm mà giác ngộ. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Phú-lưu-na nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 218. ĐẠI HẢI
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nói biển lớn; đó là lời nói của người ngu nói, chứ không phải là lời nói của bậc Thánh. Biển lớn này chỉ là một ít nước thôi. Biển mà Thánh nói là cái gì? Đó là, sắc được nhận thức bởi mắt, đáng mong muốn, đáng yêu thích, trong đó nghiệp thân, khẩu, ý chìm đắm tham lạc; đó gọi là biển. Tất cả thế gian bao gồm chúng A-tu-la, cho đến Trời, Người tham lạc chìm đắm trong đó. Như trong ruột chó, như đống cỏ rối , đời này và đời khác được nối kết chằng chịt lại cũng như vậy. Đối với tiếng được nhận thức bởi tai, mùi được nhận thức bởi mũi, vị được nhận thức bởi lưỡi, xúc được nhận thức bởi thân, đời này và đời khác được nối kết [54c] chằng chịt lại cũng như vậy.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như nói về nghiệp thân, miệng, ý; tham, nhuế, si, già, bệnh, chết cũng nói chi tiết như vậy. Giống như ba kinh nói về năm căn, ba kinh nói về sáu căn cũng như vậy.
KINH 219. ĐẠI HẢI (2)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nói biển lớn; đó là lời nói của người ngu nói, chứ không phải là lời nói của bậc Thánh. Bậc Thánh nói mắt là biển lớn của con người, và sắc kia là sóng cả . Nếu người nào chịu nổi sắc ba đào, người ấy sẽ vượt qua bờ bên kia của biển cả của mắt, với các sóng cả, các dòng xoáy, sâu trùng độc hại, và nữ quỷ La-sát. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chúng là biển cả của con người, thanh, mùi hương, vị, xúc, pháp là sóng cả. Nếu ai kham chịu nổi pháp ba đào này, người sẽ vượt qua bờ bên kia của biển cả của mắt, với các sóng cả, các dòng xoáy, sâu trùng độc hại, và nữ quỷ La-sát.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn đọc bài kệ:
Biển cả sóng cuồn cuộn,
Quỷ, ác trùng, ghê sợ;
Khó vượt nhưng vượt được.
Vĩnh viễn đoạn tập khởi,
Dứt trừ tất cả khổ,
Không tái sanh đời khác.
Vĩnh viễn trụ Niết-bàn,
Không còn buông lung nữa.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 220. KHỔ TẬP DIỆT
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ vì các ngươi mà nói về con đường dẫn đến tập khởi của khổ và con đường dẫn đến diệt tận khổ . Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.
“Thế nào là con đường dẫn đến tập khởi khổ? Do duyên con mắt và sắc nhãn thức phát sanh; hòa hợp là xúc; xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ tập khởi như vậy. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là con đường tập khởi của khổ.
“Thế nào là con đường dẫn đến diệt tận khổ? Do duyên con mắt và sắc nhãn thức phát sanh; hòa hợp ba sự xúc. Xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ cũng diệt luôn, thuần một tụ khổ lớn như vậy bị tiêu diệt. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy. [55a] Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của khổ.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
0 nhận xét