KINH 261. NAN-ĐÀ THUYẾT PHÁP
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có chúng Đại Thanh văn ni ở trong vườn vua nước Xá-vệ. Tên các Tỳ-kheo-ni này là Thuần-đà Tỳ-kheo-ni, Dân-đà Tỳ-kheo-ni, Ma-la-bà Tỳ-kheo-ni, Ba-la-giá-la Tỳ-kheo-ni, Đà-la-tì-ca Tỳ-kheo-ni, Sai-ma Tỳ-kheo-ni, Nan-ma Tỳ-kheo-ni, Cáo-nan-xá Cù-đàm-di Tỳ-kheo-ni, Ưu-bát-la-sắc Tỳ-kheo-ni, Ma-ha Ba-xà-ba-đề Tỳ-kheo-ni. Những vị này cùng một số Tỳ-kheo-ni khác đều ở trong vườn vua.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với năm trăm Tỳ-kheo-ni lần lượt trước sau đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Lúc ấy, Thế Tôn vì Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề mà thuyết pháp, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ . Sau khi bằng nhiều cách thuyết pháp, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, Ngài khiến họ lui về, rằng:
“Tỳ-kheo-ni! Thời gian thích hợp, nên đi!”
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ làm lễ mà lui.
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã về rồi, mới bảo các Tỳ-kheo:
“Ta nay tuổi đã già yếu, không còn có thể vì các Tỳ-kheo-ni thuyết pháp được. Tỳ-kheo Tăng các người, từ nay các Thượng tọa tôn đức hãy giáo thọ các Tỳ-kheo-ni.”
Các Tỳ-kheo vâng lời đức Thế Tôn, tuần tự theo thứ lớp giáo thọ các Tỳ-kheo-ni. Theo thứ tự, đến phiên Nan-đà.
Bấy giờ, theo thứ tự, Nan-đà đi nhưng không muốn đi giáo thọ.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni trước sau lần lượt đến chỗ đức Thế Tôn [74a], cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, cho đến… xin được nghe pháp. Nghe xong họ hoan hỷ, đảnh lễ rồi ra về.
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã về rồi, liền hỏi Tôn giả A-nan:
“Hôm nay đến phiên ai giáo thọ các Tỳ-kheo-ni?”
Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, các Thượng tọa đã lần lượt giáo thọ Tỳ-kheo-ni rồi, nay tới phiên Nan-đà, nhưng Nan-đà không muốn giáo thọ.”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Nan-đà:
“Ngươi hãy giáo thọ các Tỳ-kheo-ni, vì các Tỳ-kheo-ni mà nói pháp. Vì sao? Vì Ta đã đích thân dạy dỗ các Tỳ-kheo-ni, nên ngươi cũng phải như vậy. Ta đã vì các Tỳ-kheo-ni mà nói pháp, ngươi cũng nên như vậy.”
Bấy giờ, Nan-đà im lặng vâng lời.
Sáng sớm hôm sau, Nan-đà đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, Tôn giả trở về tinh xá, thu cất y bát, rửa chân xong vào thất tọa thiền. Sau khi tỉnh giác thiền tịnh, Nan-đà đắp y tăng-già-lê, và dẫn theo một Tỳ-kheo đi đến vườn vua. Các Tỳ-kheo-ni từ xa trông thấy Tôn giả Nan-đà đến, vội vàng trải chỗ ngồi, và mời ngồi. Tôn giả Nan-đà an tọa xong, các Tỳ-kheo-ni cúi đầu đảnh lễ, rồi ngồi lui qua một bên. Tôn giả Nan-đà nói với các Tỳ-kheo-ni:
“Này các cô! Các cô có điều chi xin hỏi tôi, tôi sẽ vì các cô mà nói pháp. Các cô nếu hiểu rồi, xin nói là đã hiểu; nếu chưa hiểu, nên nói là chưa hiểu. Đối với những nghĩa lý mà tôi đã nói ra, nếu đã hiểu thì hãy khéo thực hành, nếu không hiểu thì phải hỏi lại, tôi sẽ sẵn sàng nói lại.”
Các Tỳ-kheo-ni Bạch Tôn giả Nan-đà:
“Ngày nay chúng con nghe Tôn giả dạy, cho phép chúng con hỏi, bảo chúng con rằng: ‘Các cô nếu hiểu rồi, xin nói là đã hiểu; nếu chưa hiểu, nên nói là chưa hiểu. Đối với những nghĩa lý mà tôi đã nói ra, nếu đã hiểu thì hãy khéo thực hành, nếu không hiểu thì phải hỏi lại.’ Chúng con nghe được điều này, lòng rất vui mừng. Bây giờ, chúng con xin hỏi về những nghĩa lý chưa được hiểu.”
Lúc đó Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Thế nào các cô, khi quán sát về nội nhập xứ của mắt, có thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Khi quán sát về nội nhập xứ của tai mũi, lưỡi, thân, ý có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Bạch Tôn giả Nan-đà, đối với pháp này chúng con đã từng thấy biết như thật. Đối với sáu nội nhập xứ quán sát là vô ngã, chúng con từng hiểu ý như vầy: sáu nội nhập xứ là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Lành thay! Các cô nên hiểu như vậy. Sáu nội nhập xứ nên quán sát là vô ngã.
“Này các Tỳ-kheo-ni, ngoại nhập xứ của sắc có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Ngoại nhập xứ của thanh, hương, vị, xúc, pháp, có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu ngoại nhập xứ này, chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. [74b] Chúng con thường hiểu ý này: Sáu ngoại nhập xứ như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà khen ngợi các Tỳ-kheo-ni:
“Tốt lắm! Các cô đối với nghĩa này nên quán sát như vầy: ‘Sáu ngoại nhập xứ là vô ngã. Nếu duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức, vậy thì nhãn thức này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ra ý thức, vậy thì ý thức này có phải là ngã, là khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu thức thân này chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu ý này: Sáu thức thân như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Lành thay! đối với nghĩa này các cô nên quán sát như vầy: ‘Sáu thức thân như thật là vô ngã; duyên mắt và sắc sanh nhãn thức, ba sự hòa hợp này sanh xúc, vậy xúc này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ý thức, ba sự hòa hợp sanh xúc, vậy thì xúc này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu xúc này chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu ý như vầy: Sáu xúc như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Đối với nghĩa này, các cô nên quán sát như vầy: ‘Sáu xúc thân như thật là vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh nhãn thức, ba sự hòa hợp sanh xúc, xúc duyên thọ, vậy thọ này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp sanh xúc, xúc duyên thọ, vậy thọ này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu thọ thân này[74c] chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu ý này: Sáu thọ thân như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà lại bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Đối với nghĩa này, các cô nên quán sát như vầy: ‘Sáu thọ thân này như thật là vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức, ba sự hòa hợp này sanh xúc, xúc duyên tưởng, vậy tưởng này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,... pháp làm duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp này sanh xúc, xúc duyên tưởng, vậy tưởng này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu tưởng thân này, chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con cũng thường hiểu ý này: Sáu tưởng thân như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Tỳ-kheo-ni, đối với nghĩa này, các cô nên quán sát như vầy: ‘Sáu tưởng thân này như thật là vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức, ba sự hòa hợp này sanh xúc, xúc duyên tư, vậy tư này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp này sanh xúc, xúc duyên tư, vậy tư này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu tư thân này, chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con thường hiểu ý này: Sáu tư thân này như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Tỳ-kheo-ni, đối với nghĩa này, các cô nên quán sát như vầy: ‘Sáu tư thân này như thật là vô ngã. Duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức, ba sự hòa hợp này sanh xúc, xúc duyên ái, vậy ái này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?’”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Hỏi tiếp:
“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý,… pháp làm duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp này sanh xúc, xúc duyên ái, vậy ái này có phải là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì đối với sáu ái thân này, chúng con đã từng quán sát như thật là vô ngã. Chúng con thường hiểu ý này: Sáu ái thân này như thật là vô ngã.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Đối với nghĩa này các cô nên quán sát như vầy: ‘Sáu ái thân này như thật là vô ngã.’
“Này các Tỳ-kheo-ni, ví như nhờ vào có dầu mỡ, và nhờ vào tim đèn nên đèn được cháy sáng. Dầu này là vô thường, tim đèn là vô thường, lửa là vô thường, cây đèn [75a] cũng là vô thường. Nếu có người bảo rằng không dầu, không tim, không lửa, không đèn mà có ánh sáng thường trụ mãi mãi, không biến đổi, lời nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không.”
Tôn giả Nan-đà nói:
“Vì sao? Vì nhờ vào có dầu, tim, cây đèn, nên đèn cháy sáng. Dầu, tim, và cây đèn này đều là vô thường. Nếu không dầu, không tim, không đèn thì ánh sáng của cây đèn cũng theo đó mà diệt mất, vắng lặng, mát mẻ, chân thật. Như vậy, này các cô, sáu nội nhập xứ này là vô thường. Nếu có người bảo rằng ‘hỷ lạc do nhân duyên sáu nội nhập xứ này mà sanh, nó thường hằng, thường trụ, không biến đổi, an ổn,’ thì lời nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì chúng con đã từng quán sát như thật rằng vì những pháp kia làm duyên sanh ra những pháp này; nếu những pháp làm duyên kia diệt, các pháp được sanh ra này cũng tùy theo đó mà diệt mất, vắng lặng, mát mẻ, chân thật.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Đối với nghĩa này, các cô nên quán sát như vầy: Do những pháp kia làm duyên sanh ra những pháp này; những pháp làm duyên kia nếu diệt đi, các pháp được sanh ra này cũng tùy theo đó mà diệt mất, vắng lặng, mát mẻ, chân thật.”
“Này các Tỳ-kheo-ni, thí như cây đại thọ có gốc, cành, nhánh, lá; gốc chúng cũng là vô thường, nên cành, nhánh, lá cũng đều là vô thường. Nếu có người bảo rằng không có cành, nhánh, lá của cây này, mà chỉ có cái bóng của nó là thường trụ mãi mãi, không biến đổi, lời nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì như gốc, cành, nhánh, lá cây lớn này; gốc chúng cũng là vô thường, nên cành, nhánh, lá cũng là vô thường. Không gốc, không cành, không nhánh, không lá, cái bóng nương vào nơi cây đó, tất cả cũng đều không.”
Hỏi tiếp:
“Này các cô, duyên vào ngoại lục nhập xứ vô thường. Nếu bảo rằng ‘hỷ lạc do nhân duyên sáu ngoại nhập xứ mà sanh là thường trụ mãi mãi, không biến đổi, và an ổn,’ lời nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả, không. Vì sao? Vì đối với nghĩa này chúng con đã quán sát như thật, là do những pháp kia làm duyên sanh ra những pháp này; nếu những pháp làm duyên kia diệt, các pháp được sanh ra này cũng tùy theo đó mà diệt mất, vắng lặng, mát mẻ, chân thật.”
Tôn giả Nan-đà bảo các Tỳ-kheo-ni:
“Lành thay! Các Tỳ-kheo-ni, đối với nghĩa này nên quán sát như thật, là do những pháp kia làm duyên sanh ra những pháp này; nếu những pháp làm duyên kia diệt, các pháp được sanh ra này cũng tùy theo đó mà diệt mất, vắng lặng, mát mẻ, chân thật.
“Các cô hãy nghe tôi [75b] nói thí dụ, người trí nhờ thí dụ này mà hiểu rõ. Như người đồ tể mổ bò một cách thiện nghệ, hay người học trò của ông ta, tay cầm dao bén để lột da con bò, bằng cách lòn lách vào giữa da và thịt mà không phạm vào phần thịt bên trong, cũng không rách phần da ở bên ngoài, kể cả việc mổ lột chân cẳng gân cốt con bò, sau đó dùng tấm da ấy phủ lên nó trở lại. Nếu có người bảo rằng: ‘Da thịt của con bò này hoàn toàn không bị cắt rời.’ Vậy, lời nói này có đúng không?”
Các Tỳ-kheo-ni đáp:
“Bạch Tôn giả Nan-đà, không. Vì sao? Vì người đồ tể thiện nghệ này, và học trò của ông ta tay cầm dao bén, lòn lách vào giữa da và thịt, để lột da mà không chạm đến da thịt của nó, kể cả chân cẳng gân xương, tất cả đều đứt hết, sau đó trùm lại con bò ấy. Nhưng da thịt đã bị cắt đã rời, không phải là không bị cắt rời.”
“Này các cô, tôi sẽ giải thích về ý nghĩa của thí dụ này: Con bò dụ cho sắc thô của thân người, như được nói chi tiết trong kinh Giỏ rắn độc. Thịt là chỉ cho nội sáu nhập xứ. Da ngoài chỉ cho ngoại sáu nhập xứ. Người đồ tể chỉ cho bậc hữu học thấy đạo tích . Gân xương ở khoảng giữa da thịt chỉ cho sự câu hữu của hai món tham-hỷ. Dao bén chỉ cho trí tuệ sắc bén. Đa văn Thánh đệ tử dùng dao bén trí tuệ chặt đứt tất cả những kết sử, triền phược, tùy miên, phiền não, tùy phiền não. Cho nên, các cô nên học như vậy. Đối với những pháp đáng yêu thích, tâm không nên đắm trước, vì để đoạn trừ tham vậy. Đối với những pháp đáng sân hận, cũng không nên sanh tâm sân hận, vì để đoạn trừ sân vậy. Đối với những pháp đáng si, không nên sanh tâm si, vì để đoạn trừ si vậy. Đối với năm thủ uẩn phải quán sát sanh diệt. Đối với sáu xúc nhập xứ phải quán sát về sự tập khởi, và sự diệt tận. Đối với bốn niệm xứ nên khéo buộc tâm. An trú nơi bảy giác phần; khi tu bảy giác phần rồi, đối với dục lậu kia tâm không duyên đắm, tâm giải thoát. Đối với hữu lậu, tâm không duyên đắm, tâm giải thoát. Đối với vô minh lậu, tâm không duyên đắm, tâm được giải thoát. Các cô nên học như vậy.”
Bấy giờ, Tôn giả Nan-đà vì các Tỳ-kheo-ni thuyết pháp làm cho hoan hỷ . Sau khi bằng nhiều cách thuyết pháp, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng đi với năm trăm Tỳ-kheo-ni quyến thuộc lần lượt đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật, lui đứng qua một bên,… cho đến đảnh lễ Phật rồi trở về.
Bấy giờ Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã ra về, Ngài mới bảo các Tỳ-kheo:
“Thí như trăng sáng đêm mười bốn, có nhiều người ngắm trăng; trăng đã tròn hay chưa tròn? Nên biết vầng trăng ấy chưa tròn lắm. Cũng vậy, thiện nam tử Nan-đà vì năm [75c] trăm Tỳ-kheo-ni chân chánh giáo thọ, chân chánh thuyết, đối với sự giải thoát của họ, vẫn chưa phải là rốt ráo. Nhưng những Tỳ-kheo-ni này khi mạng chung không một kết sử nào là không đoạn, để có thể khiến cho họ sanh trở lại đời này.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Nan-đà:
“Hãy vì các Tỳ-kheo-ni mà nói pháp.”
Lúc ấy, Tôn giả Nan-đà im lặng vâng lời. Sáng hôm sau, Tôn giả mang bát vào thành khất thực. Thọ trai xong, Tôn giả đi tới vườn vua, rồi ngồi xuống chỗ ngồi, vì các Tỳ-kheo-ni nói pháp, làm cho hoan hỷ. Sau khi bằng nhiều cách thuyết pháp, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, rời khỏi chỗ ngồi, đứng dậy ra về.
Một hôm, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề, cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni trước sau lần lượt đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật,… cho đến đảnh lễ ra về.
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã đi rồi, bảo các Tỳ-kheo :
“Thí như trăng sáng đêm rằm, không còn ai nghi ngờ về vầng trăng tròn hay không tròn, nhưng vầng trăng kia hoàn toàn tròn đầy. Cũng vậy, thiện gia nam tử Nan-đà đã vì các Tỳ-kheo-ni chân chánh giáo thọ như vậy, cứu cánh giải thoát. Nếu lúc mạng chung, dù không có người nào nói họ sẽ đi về đâu, nhưng họ cũng có thể tự biết đây là biên tế của khổ.”
Bấy giờ, Thế Tôn thọ ký cho năm trăm Tỳ-kheo-ni chứng quả thứ nhất .
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 262. LUẬT NGHI BẤT LUẬT NGHI
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có bất luật nghi và luật nghi , các Tỳ-kheo hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói. Thế nào là bất luật nghi? Nếu nhãn căn không được luật nghi thâu giữ , nhãn thức bị đắm sắc; vì bị đắm sắc nên sanh ra khổ thọ; vì khổ thọ nên không được nhất tâm ; vì không nhất tâm nên không thấy biết như thật; vì không thấy biết như thật nên không lìa nghi hoặc; vì không lìa nghi hoặc nên bị chúng làm mê lầm chịu khổ mãi mãi. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là bất luật nghi.
“Thế nào là luật nghi? Nếu nhãn căn được luật nghi thâu giữ, khi nhãn thức nhận thức sắc, tâm không nhiễm trước ; khi tâm không nhiễm trước thì thường trụ an vui; vì tâm đã trụ trong an vui nên thường được nhất tâm, vì đã nhất tâm nên thấy biết như thật, vì đã thấy biết như thật nên lìa nghi hoặc, vì đã lìa nghi hoặc nên không bị chúng làm mê lầm, và thường trụ trong an vui. Tai, mũi, lưỡi, [76a] thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là luật nghi.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 263. THỐI BẤT THỐI
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có pháp thối chuyển, không thối chuyển, và sáu xúc xứ. Các Tỳ-kheo hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.
“Thế nào là pháp thối chuyển? Khi mắt biết sắc, suy tầm dục vọng phát sanh , Tỳ-kheo đó hoan hỷ, tán thán, chấp lấy, dính mắc, thuận theo sự xoay chuyển của pháp này, nên biết, Tỳ-kheo này đã thối chuyển các pháp lành . Thế Tôn nói đó là pháp thối chuyển. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Thế nào là pháp không thối chuyển? Khi mắt biết sắc mà sự kết buộc suy tầm dục vọng không sanh, Tỳ-kheo đó không hoan hỷ, không tán thán, không chấp lấy, không dính mắc và, đối với pháp này không thuận theo sự xoay chuyển, nên biết, Tỳ-kheo này không thối chuyển các pháp lành. Thế Tôn nói đó là pháp không thối chuyển. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Thế nào là sáu thắng xứ ? Khi nhãn thức duyên sắc, mà không sanh suy tầm dục vọng dẫn đến kết buộc ô nhiễm, nên biết, Tỳ-kheo này đã thắng được nhập xứ kia . Thế Tôn nói đó là thắng được nhập xứ kia. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Tỳ-kheo đối với sáu thắng xứ đã thắng được rồi, sẽ đoạn trừ được kết sử tham dục, và sẽ đoạn trừ được kết sử ngu si, sân hận. Giống như ông vua đánh thắng oán địch, và được tôn là ‘Ông vua chiến thắng;’ người đã đoạn trừ các kiết sử rồi được gọi là ‘Bà-la-môn chiến thắng.’”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 264. ĐIỀU PHỤC
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Đối với sáu căn này mà không điều phục, không đóng kín, không thủ hộ, không chấp trì, không tu tập, đời vị lai sẽ chịu quả báo khổ.
“Sáu căn là những gì? Nhãn căn không điều phục, không đóng kín, không thủ hộ, không chấp trì, không tu tập, ở đời vị lai sẽ chịu báo khổ. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Phàm phu ngu si không học, khi mắt thấy sắc, chấp thủ tướng chung, chấp thủ tướng riêng; bất kể nhãn căn hướng đến nơi nào, đều an trụ với bất luật nghi được chấp thọ , các ác pháp bất thiện tham ái của thế gian lọt vào tâm; những điều như thế đều do không thể chấp trì luật nghi, phòng hộ nhãn. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Như thế [76b] đối với sáu căn, không điều phục, không đóng kín, không giữ gìn, không chấp trì, không tu tập, ở đời vị lai sẽ chịu quả báo khổ.
“Thế nào là sáu căn khéo điều phục, khéo đóng kín, khéo giữ gìn, khéo chấp trì, khéo tu tập, ở đời vị lai sẽ được an vui? Đa văn Thánh đệ tử khi mắt thấy sắc không chấp thủ tướng chung, không chấp thủ tướng riêng; bất kể nhãn căn hướng đến nơi nào, vẫn thường an trú với luật nghi. Những pháp ác, bất thiện tham ái ở thế gian không lọt vào tâm, có thể sanh ra các luật nghi, khéo thủ hộ nhãn căn . Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là sáu căn khéo điều phục, khéo đóng kín, khéo giữ gìn, khéo chấp trì, khéo tu tập, ở đời vị lai sẽ được an vui.
Đức Phật liền nói bài kệ:
Nơi sáu xúc nhập xứ,
Sống với không luật nghi;
Những Tỳ-kheo như vậy,
Mãi mãi chịu khổ lớn.
Đối với các luật nghi,
Luôn tinh cần tu tập,
Chánh tín, tâm không hai,
Các lậu chẳng vào tâm.
Mắt thấy những sắc kia,
Vừa ý không vừa ý;
Vừa ý, không sanh muốn,
Không vừa ý, chẳng ghét.
Tai nghe những âm thanh,
Khả niệm, không khả niệm;
Khả niệm, không ưa đắm,
Không khả, không khởi ác.
Mũi ngửi đến các mùi,
Hoặc thơm, hoặc là hôi;
Đối thơm, hôi, bình đẳng,
Không muốn, cũng không trái.
Đối các vị để ăn,
Chúng cũng có ngon, dở;
Vị ngon không khởi tham,
Vị dở không kén chọn.
Thân xúc tạo vui sướng,
Mà chẳng sanh buông lung;
Xúc chạm bị khổ đau,
Không sanh tưởng oán ghét.
Khổ vui đều buông hết,
Chưa diệt khiến cho diệt.
Phải quán sát tâm ý,
Các tướng, các tướng kia.
Giả dối mà phân biệt,
Dục tham càng rộng lớn.
Giác ngộ các ác kia,
An trú tâm lìa dục.
Khéo nhiếp sáu căn này,
Sáu cảnh xúc không động,
[76c] Dẹp sạch các ma oán,
Vượt qua bờ sống chết.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 265. TẦN-ĐẦU THÀNH
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại nước Câu-tát-la du hành trong nhân gian đến ở trong rừng Thân-thứ , phía bắc thành Tần-đầu .
Bấy giờ trong thành Tân-đầu có các gia chủ Bà-la-môn đều nghe Thế Tôn đang ở nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, đến ở trong rừng Thân-thứ, phía bắc thành Tân-đầu. Họ nghe vậy rồi, tất cả đều ra khỏi thành, đi đến rừng Thân-thứ, chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, đức Phật nói với các gia chủ Bà-la-môn thành Tân-đầu:
“Nếu có người hỏi các Ông: ‘Những hạng Sa-môn, Bà-la-môn nào không đáng cung kính, lễ bái, thừa sự, cúng dường?’ thì các Ông nên đáp là: ‘Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, mắt thấy sắc mà chưa lìa được tham, chưa lìa được dục, chưa lìa ái, chưa lìa khao khát, chưa lìa niệm, nội tâm không tịch tịnh, việc làm phi pháp, hành vi thô tháo. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Những hạng Tì-kheo như vậy không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, thừa sự, cúng dường.’ Nói như vậy xong, lại có người khác hỏi: ‘Vì sao những Sa-môn này không đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’ Các Ông nên trả lời: “Chúng tôi mắt thấy sắc mà không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm không tịch tịnh, và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn kia, khi mắt thấy sắc cũng không lìa tham, không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm họ không tịch tịnh, hành động phi pháp, việc làm lôi thôi, và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Chúng tôi tìm sự sai biệt ở đây, nhưng không thấy họ khác biệt chúng tôi chỗ nào. Vì vậy, chúng tôi không cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự cúng dường các hạng Sa-môm, Bà-la-môn như vậy.’
“Nếu có người hỏi: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đáng cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’ Các Ông nên trả lời: ‘Nếu những vị ấy khi mắt thấy sắc mà lìa dục, lìa tham, lìa ái, lìa khao khát, lìa niệm, trong tâm họ tịch tịnh, không hành động phi pháp, làm những hạnh bình đẳng, việc làm không lôi thôi; đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy; những hạng Sa-môn, Bà-la-môn như vậy đáng được cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường.’
[77a] “Nếu lại hỏi: ‘Vì sao những Sa-môn, Bà-la-môn này được cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự, cúng dường?’ Các Ông nên trả lời: ‘Chúng tôi mắt thấy sắc không lìa tham, không lìa dục, không lìa ái, không lìa khao khát, không lìa niệm, trong tâm không tịch tịnh, hành động phi pháp, việc làm lôi thôi. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, y, pháp lại cũng như vậy. Những vị Sa-môn, Bà-la-môn này lại lìa tham, lìa dục, lìa ái, lìa khao khát, lìa niệm, nội tâm tịch tịnh, hành động đúng pháp, hành động không thô tháo; và đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp lại cũng như vậy. Ở đây, chúng tôi tìm sự khác biệt, và thấy những vị ấy có chỗ khác chúng tôi. Vì thấy có sự sai biệt, nên chúng tôi cung kính, tôn trọng, lễ bái, phụng sự cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn ấy .’
“Đã trả lời như vậy, nếu có người lại hỏi: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn này có hành vi gì, có hình mạo thế nào, và có dấu hiệu nào để khiến cho các ông biết những Sa-môn, Bà-la-môn này lìa tham, hướng đến điều phục tham; lìa sân, hướng đến điều phục lìa sân; lìa si, hướng đến điều phục lìa si?’ Các Ông phải trả lời rằng: ‘Chúng tôi thấy Sa-môn, Bà-la-môn này có những biểu hiện như thế này: Ở trong rừng vắng, dưới bóng cây, giường thấp, hoặc nơi nệm cỏ, tu hạnh viễn ly, xa lìa người nữ, ưa gần người độc cư để cùng thiền tịnh tư duy; nếu ở những chỗ đó mà không sắc được thấy bởi mắt có thể sanh tâm tham đắm; không tiếng được nghe bởi tai có thể sanh tâm tham đắm; không mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, có thể sanh tâm tham đắm. Những Sa-môn, Bà-la-môn này có hành vi như vậy, có hình mạo như vậy, và có dấu hiệu như vậy để khiến cho các chúng tôi biết những Sa-môn, Bà-la-môn này lìa tham, hướng đến điều phục tham; lìa sân, hướng đến điều phục lìa sân; lìa si, hướng đến điều phục lìa si.”
Khi ấy, các Sa-môn, và gia chủ Bà-la-môn, bạch Phật:
“Kỳ diệu thay, Thế Tôn! Ngài không tự khen mình, không chê người, mà chỉ nói ý nghĩa. Mỗi người nơi các nhập xứ tự mình phân biệt nhiễm ô hay thanh tịnh, nói rộng duyên khởi đúng lời nói của Như Lai Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác. Giống như người cứu được kẻ chết chìm, như mở chỗ bít kín, như chỉ lối cho kẻ lầm đường, như thắp đèn nơi tối. Cũng vậy, Thế Tôn không khen mình, chê người, mà chỉ nói ý nghĩa… cho đến, như lời Như Lai nói.”
Các gia chủ Bà-la-môn ở thành Tân-đầu, sau khi nghe những điều đức Phật đã nói, vui vẻ, làm lễ ra về.
KINH 266. OANH PHÁT MỤC-KIỀN-LIÊN
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca lan đà nơi thành Vương Xá.
[77b] Bấy giờ có Mục-kiền-liên tóc búi xuất gia, đi đến chỗ Phật, cùng nhau hỏi thăm xong, ngồi qua một bên. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với Mục-kiền-liên tóc búi:
“Ông từ đâu đến?”
Mục-liên liền bạch Phật:
“Tôi theo chúng ngoại đạo, Sa-môn, Bà-la-môn Giá-la-ca xuất gia, vừa hội họp ở giảng đường Vị tằng để nghe pháp, và từ rừng đó đến đây.”
Phật bảo Mục-kiền-liên tóc búi:
“Ông vì những phước lực gì mà nghe thuyết pháp từ các chúng Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo Giá-la-ca xuất gia kia?”
Mục-kiền-liên tóc bện bạch Phật:
“Tôi thử nghe phước lợi mà họ luận nghị tranh hơn nhau, nghe phước lợi mà họ phản bác luận nghị nhau.”
Phật bảo Mục-kiền-liên:
“Từ xưa tới nay, các Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo Giá-la-ca xuất gia, luận nghị tranh hơn nhau, phản bác luận nghị nhau về phước lợi, phá hoại lẫn nhau.”
Mục-kiền-liên tóc bện bạch Phật:
“Cù-đàm vì phước lợi mà nói những pháp gì cho các đệ tử, để cho các đệ tử nói lại cho người khác nghe mà không phỉ báng Như Lai, không thêm, không bớt; nói chân thật, nói đúng pháp, nói đúng theo thuận thứ của pháp, để không một người nào có thể đến so sánh, nạn vấn, chỉ trích?”
Phật bảo Mục-kiền-liên:
“Vì phước lợi quả báo của minh, giải thoát, mà nói lại cho người nghe, không phỉ báng Như Lai, không trái đạo lý, nói đúng pháp, đúng thuận thứ của pháp, không ai có thể đến so sánh, nạn vấn, chỉ trích.”
Mục-kiền-liên tóc bện bạch Phật:
“Bạch Cù-đàm, có pháp nào mà các đệ tử tu tập, thường xuyên tu tập, sẽ khiến thành tựu viên mãn phước lợi, minh , giải thoát chăng?”
Phật bảo Mục-kiền-liên tóc bện:
“Có bảy giác phần, tu tập, và thường xuyên tu tập, sẽ khiến thành tựu viên mãn phước lợi, minh, giải thoát.”
Mục-kiền-liên tóc bện bạch Phật:
“Có pháp nào mà tu tập, tu tập nhiều, sẽ khiến cho bảy giác phần đầy đủ chăng?”
Phật bảo:
“Có bốn niệm xứ, tu tập, tu tập nhiều, sẽ khiến bảy giác phần được đầy đủ.”
Mục-kiền-liên tóc bện lại bạch Phật:
“Lại có pháp nào mà tu tập, tu tập nhiều, sẽ khiến cho bốn niệm xứ đầy đủ chăng?”
Phật bảo Mục-kiền-liên tóc bện:
“Có ba diệu hành, tu tập, tu tập nhiều, sẽ khiến cho bốn niệm xứ đầy đủ.”
Mục-kiền-liên bạch Phật:
“Lại có pháp nào mà tu tập, tu tập, sẽ khiến cho ba diệu hạnh đầy đủ chăng?”
Phật bảo Mục-kiền-liên:
“Có luật nghi của sáu xúc xứ , tu tập, tu tập nhiều, sẽ khiến ba diệu hành đầy đủ.”
Mục-kiền-liên tóc bện bạch Phật:
[77c] “Thế nào là luật nghi của sáu xúc xứ mà tu tập, tu tập nhiều, sẽ khiến cho ba diệu hạnh đầy đủ?”
Phật bảo Mục-kiền-liên tóc bện:
“Nếu sắc được nhận thức bởi mắt, vừa ý, đáng ưa, đáng nhớ, có khả năng nuôi lớn dục lạc, sẽ khiến cho người hệ lụy; Tỳ-kheo kia, khi thấy sắc này, không hoan hỷ, không tán thán, không duyên theo, không đắm trước, không trụ vào. Hoặc sắc được nhận thức bởi mắt, không vừa ý, không đáng ưa, không đáng nhớ, đưa đến cảm giác khổ; các Tỳ-kheo này khi thấy, không sợ, không ghét, không hiềm, không tức tối. Đối với sắc đẹp kia, khi mắt đã thấy, hoàn toàn không duyên đắm. Đối với sắc không đẹp, khi mắt đã thấy, hoàn toàn không duyên đắm, nội tâm an trụ bất động, khéo tu giải thoát, tâm không lười mỏi. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, thức pháp lại cũng như vậy. Như vậy, đối với sáu xúc xứ mà tu tập, tu tập nhiều, đầy đủ ba diệu hành.
“Thế nào là tu ba diệu hành khiến đầy đủ bốn niệm xứ? Đa văn Thánh đệ tử ở chỗ vắng vẻ trong rừng, dưới bóng cây, tu học như vầy, tư duy như vầy: ‘Ác hành của thân này, đời này đời sau phải chịu báo ác. Nếu ta hành động với ác hành của thân, chắc phải tự sanh chán nãn, hối hận, bị người khác chê trách, Đại sư cũng chê trách, những người đồng phạm hạnh cũng đúng pháp mà chê trách ta; tiếng ác đồn khắp mọi nơi, thân hoại mạng chung sẽ rơi vào địa ngục.’ Đối với ác hành của thân, thấy quả báo đời này, đời sau như vậy. Cho nên phải dứt trừ ác hành của thân, phải tu thân diệu hành; đối với ác hành của miệng, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là đã tu tập ba diệu hành, được bốn niệm xứ thanh tịnh đầy đủ.
“Thế nào là tu tập bốn niệm xứ để được bảy giác phần đầy đủ? Này Mục-kiền-liên, như vậy, an trụ với quán thân trên toàn thân. Kia khi an trụ với quán thân trên toàn thân, nhiếp niệm an trú không xao lãng; bấy giờ, phương tiện tu tập niệm giác phần. Khi đã phương tiện tu tập niệm giác phần rồi, được niệm giác phần đầy đủ; ở nơi tâm niệm kia mà chọn lựa pháp, rồi suy tầm, suy tưởng, tư lường; bấy giờ, phương tiện tu tập trạch pháp giác phần. Khi phương tiện tu tập trạch pháp giác phần rồi, được trạch pháp giác phần đầy đủ; chọn lựa pháp này, suy tầm, suy tưởng, tư lường, phương tiện tu tập tinh tấn giác phần. Khi đã phương tiện tu tập tinh tấn giác phần rồi, được tinh tấn giác phần đầy đủ, nhờ siêng năng tinh tấn nên sanh tâm hoan hỷ; bây giờ, dùng phương tiện tu tập hỷ giác phần. Khi phương tiện tu tập hỷ giác phần rồi, được hỷ giác phần đầy đủ; [78a] do tâm hỷ, thân tâm tịch tĩnh; bây giờ, tu tập khinh an giác phần. Khi đã tu tập khinh an giác phần rồi, được khinh an giác phần đầy đủ, thân tâm tịch tĩnh, được tam-ma-đề ; bây giờ, tu tập định giác phần. Khi đã tu tập định giác phần rồi, được định giác phần đầy đủ. Tức là tâm chuyên nhất, tham ưu đình chỉ, nội tâm hành xả ; phương tiện tu tập xả giác phần. Khi đã phương tiện tu tập xả giác phần, được xả giác phần thanh tịnh đầy đủ. Đối với thọ, tâm, pháp niệm xứ cũng nói như vậy. Tu tập bốn niệm xứ như vậy, bảy giác phần được đầy đủ.
“Thế nào là tu tập bảy giác phần để đầy đủ minh, giải thoát? Này Mục-kiền-liên, nếu Tỳ-kheo tu tập niệm giác phần, y viễn ly, y ly dục, y diệt tận, hướng đến xả , tiến đến tu niệm giác phần, chứng đắc minh, giải thoát, thanh tịnh viên mãn. (Chi tiết, cho đến) Tu tập xả giác phần cũng nói như vậy. Đó gọi là tu tập bảy giác phần, chứng đắc minh, giải thoát, thanh tịnh viên mãn. Như vậy, Mục-kiền-liên, pháp pháp nương nhau từ bờ này mà đến bờ kia.”
Sau khi nghe Phật thuyết pháp xong, Mục-kiền-liên tóc bện xa lìa trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh.
Khi ấy, Mục-kiền-liên thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, nhập pháp, hết những nghi ngờ mê hoặc, không do ai khác mang đến, ở trong Chánh pháp luật, tâm đạt được sự không sợ hãi; ông từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, đảnh lễ Phật, chấp tay bạch rằng:
“Nay con có được xuất gia, thọ cụ túc ở trong chánh pháp luật không?”
Phật bảo Mục-kiền-liên:
“Nay Ông đã được xuất gia, được thọ cụ túc giới trong chánh pháp luật.”
Sau khi được xuất gia rồi, Mục-kiền-liên chuyên cần tư duy, không buông lung, cho đến thành A-la-hán.
KINH 267. CHƯ CĂN TU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại Ca-vi-già-la Mâu-chơn-lân-đà .
Bấy giờ có một niên thiếu tên là Uất-đa-la , là đệ tử của Ba-la-xà-na , đi đến chỗ Phật, cung kính hỏi thăm, rồi lui ngồi một bên.
Bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi Uất-đa-la:
“Thầy con là Ba-la-xà-na có dạy cho các con tu tập các căn không?”
Uất-đa-la trả lời:
“Bạch Cù-đàm, đã có dạy.”
Đức Phật bảo Uất-đa-la:
“Thầy con dạy tu về các căn như thế nào?”
Uất-đa-la bạch Phật:
“Thầy con nói, mắt không nhìn thấy sắc, tai không nghe tiếng ; đó là tu về căn.
Phật bảo Uất-đa-la:
[78b] “Nếu như lời thầy con nói thì những người mù tu căn chăng? Vì sao? Vì chỉ có người mù mới không thấy sắc bằng mắt.”
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang đứng phía sau cầm quạt hầu Phật. Tôn giả nói với Uất-đa-la:
“Như lời của Ba-la-xà-na nói, người điếc tu căn chăng? Vì sao? Vì chỉ có người điếc tai mới không nghe tiếng.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với Tôn giả A-nan:
“Khác sự tu căn vô thượng trong Pháp Luật của Hiền Thánh.”
Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Xin đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói về sự tu căn vô thượng trong Pháp Luật của Hiền Thánh, để cho các Tỳ-kheo nghe xong sẽ vâng lời thực hành theo.”
Phật bảo A-nan:
“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.
“Duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, thấy sắc vừa ý, muốn tu sự nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, không vừa ý, muốn tu sự không nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, vừa ý không vừa ý, muốn tu sự nhàm tởm không nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, không vừa ý vừa ý, muốn tu sự không nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, vừa ý không vừa ý, vừa không vừa ý, muốn tu lìa bỏ cả hai, sự nhàm tởm và không nhàm tởm của Như Lai, an trụ xả tâm, với chánh niệm chánh trí.
“Như vậy, A-nan, nếu có người nào đối với năm trường hợp này, tâm khéo điều phục, khéo đóng kín, khéo thủ hộ, khéo nhiếp trì, khéo tu tập, đó là ở nơi mắt và sắc mà tu tập căn vô thượng. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý… pháp cũng lại như vậy.
“Này A-nan, đó gọi là tu căn vô thượng trong Pháp Luật của Hiền Thánh.”
Tôn giả A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, thế nào là sự tu căn của Hiền Thánh trong pháp luật của Hiền Thánh?”
Phật bảo A-nan:
“Duyên và sắc, nhãn thức sanh, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý. Thánh đệ tử kia cũng phải biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý. Đây là tịch diệt, đấy là thắng diệu, tức là xả bỏ hết. Khi đã xả bỏ được hết, lìa bỏ cả nhàm tởm và không nhàm tởm. Giống như người lực sĩ trong khoảnh khắc khảy móng tay, thoáng chốc biến mất ; cũng vậy, duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, trong chốc lát như vậy đều diệt hết, đạt đến chỗ lìa bỏ nhàm tởm và không nhàm tởm, an trụ xả.’
“Cũng vậy duyên tai và tiếng, sanh nhĩ thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý. [78c] Thánh đệ tử biết như thật như vầy: ‘Ta, nhĩ thức nghe tiếng, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý. Đấy là tịch diệt, đây là thắng diệu, tức là xả bỏ hết. Khi đã xả bỏ được hết, lìa bỏ cả nhàm tởm và không nhàm tởm. Giống như người lực sĩ trong khoảnh khắc khảy móng tay, thoáng chốc tiếng phát ra liền mất; cũng vậy, duyên tai và tiếng, sanh nhĩ thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý; sanh rồi đều diệt tận, đó là xả. Đạt được xả rồi, lìa nhàm tởm, không nhàm tởm.’
“Duyên mũi và mùi, sanh tỷ thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý. Thánh đệ tử biết như thật như vậy: ‘Ta, duyên mũi và mùi, sanh tỷ thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý. Đây là tịch diệt, đây là thắng diệu, tức là xả bỏ hết. Khi đã xả bỏ được hết, lìa bỏ cả nhàm tởm và không nhàm tởm. Thí như hoa sen ở dưới nước không nhiễm bùn; cũng vậy, duyên mũi và mùi, sanh tỷ thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý; sanh rồi đều diệt hết. Có nghĩa là buông xả, khi buông xả rồi thì sẽ lìa nhàm tởm, không nhàm tởm.’
“Duyên lưỡi và vị, sanh thiệt thức, sanh vừ ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý. Thánh đệ tử kia biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên lưỡi và vị, sanh thiệt thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận, tịch diệt, thắng diệu. Có nghĩa là buông xả, khi buông xả rồi thì sẽ lìa nhàm tởm, không nhàm tởm. Như người lực sĩ nhổ hết vị ra không còn gì nữa; cũng vậy, duyên lưỡi và vị, sanh thiệt thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý; sanh rồi đều diệt tận. Nghĩa là buông xả, khi buông xả hết rồi, sẽ xa lìa nhàm tởm, không nhàm tởm.’
“Duyên thân và thức, sanh thân thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận. Đa văn Thánh đệ tử biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên thân và xúc sanh thân thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận, tịch diệt, thắng diệu. Nghĩa là buông xả, khi buông xả rồi thì sẽ lìa nhàm tởm, không nhàm tởm. Thí như viên sắt đốt thật nóng, rưới vào một giọt nước, giọt nước liền tiêu mất; cũng vậy, duyên thân và xúc sanh thân thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận. Nghĩa là buông xả, khi buông xả rồi thì sẽ lìa nhàm tởm, không nhàm tởm.’
“Duyên ý và pháp sanh ý thức, sanh vừa ý, sanh không [79a] vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận. Đa văn Thánh đệ tử biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên ý và pháp sanh ý thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận, đó là tịch diệt, thắng diệu. Nghĩa là buông xả, khi buông xả rồi thì sẽ lìa nhàm tởm, không nhàm tởm. Thí như người lực sĩ chặt ngọn cây ta-la, cũng vậy, duyên ý và pháp sanh ý thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, sanh rồi đều diệt tận. Nghĩa là buông xả, khi buông xả rồi thì sẽ lìa nhàm tởm, không nhàm tởm.’
“Này A-nan, đó là sự tu căn của Hiền Thánh trong pháp luật của Hiền Thánh .
“Thế nào là vị hữu học thấy đạo tích trong pháp luật Hiền Thánh?”
Phật bảo A-nan:
“Duyên mắt và sắc sanh nhãn thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, đa văn Thánh đệ tử kia hổ thẹn, ghét tởm. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm duyên nhau sanh ra ý thức, sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, đa văn Thánh đệ tử kia hổ thẹn, ghét tởm. Này A-nan, đó gọi là hữu học thấy đạo trong pháp luật Hiền Thánh.
“Này A-nan, đó gọi là sự tu căn của Hiền Thánh trong pháp luật của Hiền Thánh.
“Ta đã nói về sự tu căn của Hiền Thánh trong pháp luật của Hiền Thánh; đã nói hữu học thấy đạo trong pháp luật Hiền Thánh.
“Này A-nan, Ta vì các Thanh văn đã làm việc cần làm. Các ngươi cũng hãy làm những việc cần làm. Nói chi tiết như kinh Giỏ rắn độc.
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
[86c23] KINH 268. LỤC LỤC
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại xóm Điều ngưu , Câu-lưu-sấu.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo :
“Nay Ta sẽ nói pháp cho các ngươi, khoảng đầu, khoảng giữa, và khoảng cuối đều thiện, thiện nghĩa, thiện vị, thuần nhất thanh tịnh, phạm hạnh thanh bạch. Hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ! Có sáu pháp sáu. Những gì là sáu? Đó là, sáu nội nhập xứ, sáu ngoại nhập xứ, sáu thức thân, sáu xúc thân, sáu thọ thân, sáu ái thân.
“Sáu nội nhập xứ là những gì? Đó là, nhãn nhập xứ, nhĩ nhập xứ, tỷ nhập xứ, thiệt nhập xứ, thân nhập xứ, ý nhập xứ.
“Sáu [87a] ngoại nhập xứ là những gì? Đó là, sắc nhập xứ, thanh nhập xứ, hương nhập xứ, vị nhập xứ, xúc nhập xứ, pháp nhập xứ.
“Sáu thức thân là những gì? Đó là, nhãn thức thân, nhĩ thức thân, tỷ thức thân, thiệt thức thân, thân thức thân, ý thức thân.
“Sáu xúc thân là những gì? Đó là, nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc thân.
“Sáu thọ thân là những gì? Đó là, nhãn xúc sanh thọ, nhĩ xúc sanh thọ, tỷ xúc sanh thọ, thiệt xúc sanh thọ, thân xúc sanh thọ, ý xúc sanh thọ.
”Sáu ái thân là những gì? Đó là, mắt tiếp xúc sanh ái, tai tiếp xúc sanh ái, mũi tiếp xúc sanh ái, lưỡi tiếp xúc sanh ái, thân tiếp xúc sanh ái, ý tiếp xúc sanh ái.
“Nếu có người nói rằng ‘mắt là ngã,’ điều này chẳng đúng. Vì sao? Vì mắt là sanh diệt. Nếu mắt là ngã, ngã này phải chịu sanh tử. Cho nên nói mắt là ngã, điều này chẳng đúng. Cũng vậy, hoặc là sắc, hoặc nhãn thức, hoặc nhãn xúc, hoặc cảm thọ sanh bởi nhãn xúc, nếu là ngã, điều này cũng chẳng đúng. Vì sao? Thọ do mắt tiếp xúc sanh ra, nó là pháp sanh diệt. Nếu thọ do mắt tiếp xúc sinh ra là ngã, ngã này phải chịu sanh tử. Cho nên nói thọ do nhãn xúc sinh ra là ngã, điều này không đúng. Vì vậy, thọ do mắt tiếp xúc sanh ra chẳng phải là ngã. Cũng vậy, thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tiếp xúc sinh ra chẳng phải ngã. Vì sao? Thọ do ý tiếp xúc sanh ra, nó là pháp sanh diệt. Nếu nó là ngã, ngã này phải chịu sanh tử. Cho nên nói thọ do ý tiếp xúc sinh ra là ngã, điều này chẳng đúng. Cho nên thọ do ý tiếp xúc sinh ra chẳng phải là ngã.
“Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên biết như thật cái được tác thành bởi trí, cái được tác thành bởi mắt, cái được tác thành bởi tịch diệt, khai phát thần thông, chánh hướng Niết-bàn.
“Thế nào là thấy biết như thật cái được tác thành bởi do mắt, cho đến hướng đúng Niết-bàn? Như vậy, này các Tỳ-kheo, mắt chẳng phải ngã. Sắc, nhãn, thức, nhãn xúc, hoặc cảm thọ với cảm giác bên trong khổ, lạc, phi khổ lạc sanh bởi nhãn xúc ; kia cũng quán sát là chẳng phải ngã. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng nói như vậy. Đó gọi là biết thấy như thật sự tác thành do mắt, cho đến chánh hướng Niết-bàn. Đó gọi là kinh nói về sáu pháp sáu.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 269. LỤC NHẬP XỨ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại xóm Điều ngưu, Câu-lưu-sấu.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo :
“Nay, Ta sẽ nói pháp cho các ngươi, khoảng đầu, khoảng giữa, và khoảng cuối đều thiện, thiện nghĩa, thiện vị, thuần nhất thanh tịnh, phạm hạnh thanh bạch. [87b] Đó là kinh Sáu phân biệt sáu nhập xứ. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ nói cho các ngươi.
“Thế nào là kinh Sáu phân biệt sáu nhập xứ? Đối với nhãn nhập xứ mà không thấy biết như thật; sắc, nhãn thức, nhãn xúc, cảm thọ với cảm giác bên trong khổ, lạc, phi khổ lạc sanh bởi nhãn xúc, không thấy biết như thật; không thấy biết như thật nên đắm nhiễm nơi mắt; đắm nhiễm nơi sắc, nhãn thức, nhãn xúc, cảm thọ với cảm giác bên trong khổ, lạc, phi khổ lạc sanh bởi nhãn xúc. Cũng vậy, đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp, ý thức, ý xúc, cảm thọ với cảm giác bên trong khổ, lạc, phi khổ lạc sanh bởi ý xúc. Như vậy, sự niệm tưởng, sự ngu tối tương ưng với nhiễm trước kết buộc tâm, năm thủ uẩn được tăng trưởng; tham ái hữu đương lai câu hữu với hỷ tham cũng đều được tăng trưởng; do đó, thân tâm mệt nhọc , thân tâm thiêu đốt, thân tâm hẫy hừng, thân tâm cuồng loạn, thân sinh ra cảm giác khổ. Vì thân sinh ra cảm giác khổ nên sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ trong đời vị lai sẽ tăng trưởng. Đó gọi là thuần một khối khổ lớn.
“Này các Tỳ-kheo, nếu đối với mắt mà thấy biết như thật; đối với sắc, nhãn thức, nhãn xúc, cảm thọ với cảm giác bên trong khổ, lạc, phi khổ lạc sanh bởi nhãn xúc, mà thấy biết như thật; vì thấy biết như thật, nên đối với mắt không đắm nhiễm; đối với sắc, nhãn thức, nhãn xúc, cảm thọ với cảm giác bên trong khổ, lạc, phi khổ lạc sanh bởi nhãn xúc, không đắm nhiễm. Cũng vậy, đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý… pháp thấy biết như thật; đối với pháp, ý thức, ý xúc, cảm thọ với cảm giác bên trong khổ, lạc, phi khổ lạc sanh bởi ý xúc, thấy biết như thật. Do thấy biết như thật nên đối với ý không đắm nhiễm; đối với pháp, ý thức, ý xúc, cảm thọ với cảm giác bên trong khổ, lạc, phi khổ lạc sanh bởi ý xúc, mà không đắm nhiễm. Do không đắm nhiễm nên không tương tạp , không ngu tối, không niệm tưởng, không hệ lụy, tổn giảm năm thủ uẩn, tham ái hữu tương lai câu hữu tham, hỷ, nhiễm trước nơi này hay nơi kia, tất cả đều bị tiêu diệt; do đó, thân không khổ nhọc, tâm không khổ nhọc, thân không cháy, tâm không bị thiêu đốt, thân không hẫy hừng, tâm không hẫy hừng, thân cảm thấy khoái lạc, tâm cảm thấy an vui. Vì thân tâm cảm thấy an vui nên sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ trong đời vị lai đều bị tiêu diệt, và thuần một khối khổ ấm lớn cũng bị diệt.
“Biết như vậy, thấy như vậy, gọi là đã tu tập đầy đủ chánh kiến, [87c] chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định đã nói trước, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, tu tập thanh tịnh đầy đủ, đó gọi là tu tập bát Thánh đạo thanh tịnh đầy đủ. Khi tu tập bát Thánh đạo đã đầy đủ rồi, bốn biệm xứ cũng tu tập đầy đủ; bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy bồ-đề phần cũng tu tập đầy đủ. Đối với pháp nên biết, nên thấu rõ, tất sẽ biết, sẽ thấu rõ; pháp nên biết, nên đoạn trừ, tất sẽ biết, sẽ đoạn trừ; pháp nên biết, nên chứng, tất sẽ biết, sẽ chứng; pháp nên biết, nên tu tập, sẽ tu tập .
“Những pháp nào nên biết, nên thấu rõ? Đó là danh sắc. Những pháp nào cần phải biết, cần phải dứt trừ? Đó là vô minh, hữu ái. Những pháp nào nên biết, nên chứng? Đó là minh, giải thoát. Những pháp nào nên biết, nên tu? Đó là chỉ và quán.
“Tỳ-kheo đối với pháp nên biết, nên thấu rõ này, mà tất biết, tất thấu rõ; pháp nên biết, nên đoạn trừ, mà tất biết, tất đoạn trừ; pháp nên biết, nên chứng, mà tất biết, tất chứng; pháp nên biết, nên tu, mà tất biết, tất tu; đó gọi là Tỳ-kheo đoạn trừ mọi ràng buộc của ái, chân chánh hiện quán , đạt đến cứu cánh khổ biên.
“Này các Tỳ-kheo, đó gọi là kinh Sáu phân biệt sáu nhập xứ.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 270. NHÂN
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo một mình ở chỗ vắng vẻ, chuyên cần tư duy, nghĩ thầm: “Tỳ-kheo nên biết thế nào, thấy thế nào để được thấy pháp?” Suy nghĩ như vậy rồi, từ chỗ ngồi thiền đứng dậy đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, một mình con ở nơi vắng, chuyên cần tinh tấn tư duy, nghĩ rằng: ‘Tỳ-kheo nên biết thế nào, nên thấy thế nào để được thấy pháp?’”
Thế Tôn bảo Tỳ-kheo kia:
“Ngươi hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.
“Có hai pháp. Hai pháp gì? Mắt và sắc là hai. (Nói chi tiết như trên cho đến)... những thứ chẳng phải là cảnh giới. Vì sao? Mắt và sắc làm duyên sanh ra nhãn thức, ba sự hòa hợp sanh xúc; thọ, tưởng, tư câu sanh với xúc; bốn vô sắc ấm này, mắt và sắc, những pháp này gọi là con người, đối với những pháp này mà khởi ý tưởng là con người, là chúng sanh, na-la, ma-nậu-xà, ma-na-bà, sĩ phu, phước-già-la, kỳ-bà, thiền-đầu .
“Lại nói như [88a] vầy: ‘Mắt tôi thấy sắc, tai tôi nghe tiếng, mũi tôi ngửi mùi, lưỡi tôi nếm vị, thân tôi chạm biết, ý tôi phân biệt pháp.’ Kia giả lập rồi nói như vầy: ‘Vị Tôn giả này tên như vậy, sinh như vậy, họ như vậy, ăn uống như vậy, cảm thọ khổ lạc như vậy, sống lâu như vậy, trụ lâu như vậy, thọ mạng như vậy.’ Này Tỳ-kheo, đó là tưởng, là ghi nhớ, là ngôn thuyết ; tất cả các pháp này đều là hữu vi, vô thường, do suy nghĩ mong cầu mà sinh ra. Nếu là pháp hữu vi, vô thường, do suy nghĩ mong cầu mà sanh ra, chúng là khổ. Khổ này phát sinh, rồi khổ đình trụ, rồi khổ diệt; và rồi khổ này tái diễn xuất sanh nhiều lần; tất cả đều khổ. Nếu cái khổ này dứt đi, không còn dư tàn, nhả ra hết, ly dục, tịch diệt, tịch tĩnh, mà các khổ khác không tiếp nối, không phát sinh nữa; đây là tịch diệt, đây là thắng diệu, tức là xả tất cả hữu dư, tất cả ái tận, vô dục, diệt tận, Niết-bàn. Tai, mũi, lưỡi, thân,… thân, xúc làm duyên sanh thức thân, ba sự hòa hợp sanh xúc; thọ câu sanh với xúc, tưởng, tư; bốn vô sắc ấm này, với thân căn là sắc ấm, gọi đó là con người. Chi tiết như trên cho đến diệt tận Niết-bàn.
“Duyên ý và pháp sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp sanh xúc, thọ câu sanh với xúc, tưởng, tư; bốn vô sắc ấm này, và bốn đại, là sở y của con người; những pháp này gọi là con người. Chi tiết đầy đủ như trên, cho đến diệt tận Niết-bàn.
“Nếu có người nào đối với các pháp này mà tâm tùy nhập, an trú, giải thoát, không thối chuyển, đối với người ấy những hệ lụy khởi lên đều không có ngã. Tỳ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, đó là thấy pháp.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.