KINH 231. HỮU LẬU VÔ LẬU
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói về pháp hữu lậu và pháp vô lậu. Vậy, thế nào là pháp hữu lậu? Sắc, nhãn thức, và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp, ý thức, ý xúc, và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên ý xúc; thuộc thế tục, nên gọi là pháp hữu lậu.
“Thế nào là pháp vô lậu? Vượt ra ngoài ý thế gian, hoặc pháp, ý thức, ý xúc, và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên ý xúc, thuộc xuất thế gian, nên gọi là pháp vô lậu.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 232. TAM-DI-LY-ĐỀ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo tên là Tam-di-li-đề đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, gọi là thế gian. Vậy, thế nào gọi là thế gian?”
Phật bảo Tam-di-li-đề:
“Con mắt, sắc, nhãn thức, nhãn xúc và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp, ý thức, ý xúc, và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân [56b] duyên ý xúc. Đó gọi là thế gian. Vì sao? Sáu nhập xứ tập khởi nên xúc tập khởi, như vậy cho đến thuần một tụ khổ lớn cũng tập khởi.
“Này Tam-di-li-đề, nếu không có con mắt kia, không có sắc, không có nhãn thức, không có nhãn xúc và không có cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc; không có tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp, ý thức, ý xúc, và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên ý xúc, không có thế gian, cũng không có thi thiết thế gian . Vì sao? Sáu nhập xứ diệt nên xúc diệt, cho đến thuần một tụ khổ lớn cũng diệt.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Tam-di-li-đề nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
Như thế gian, chúng sanh, Ma cũng được nói như vậy.
KINH 233. TAM-DI-LY-ĐỀ (2)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Tam-di-li-đề, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, gọi là thế gian. Vậy, thế nào gọi là thế gian?”
Phật bảo Tam-di-li-đề:
“Mong manh tan vỡ, đó gọi là thế gian. Thế nào là mong manh tan vỡ?
“Này Tam-di-li-đề, mắt là pháp mong manh tan vỡ. Sắc, nhãn thức, nhãn xúc và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc, tất cả chúng đều mong manh tan vỡ. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Đó là nói rằng vì nó mong manh tan vỡ cho nên gọi là thế gian.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo Tam-di-li-đề nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 234. KHÔNG
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Tam-di-li-đề, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, nói rằng ‘Thế gian trống không.’ Vậy, thế nào gọi là ‘Thế gian không’?”
Phật bảo Tam-di-li-đề:
“Mắt là không; pháp thường trú, vĩnh hằng, không biến dịch là không; ngã sở là không . Vì sao? Vì tánh của nó tự là như vậy. Sắc, nhãn thức, nhãn xúc và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc, tất cả chúng cũng không; pháp thường trú, vĩnh hằng, không biến dịch là không; ngã sở là không. Vì sao? Vì tánh của nó tự như vậy. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Đó gọi là thế gian không.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo [56c] Tam-di-li-đề nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 235. THẾ GIAN
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói về thế gian, về sự tập khởi của thế gian, về sự diệt tận thế gian, về con đường đưa đến sự diệt tận thế gian. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ.
“Thế nào là thế gian? Đó là sáu nội xứ. Những gì là sáu? Nhãn nội xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý nội xứ.
“Thế nào là sự tập khởi thế gian? Đó là tham ái đối hữu tương lai, đi đôi với tham và hỷ, ước vọng tái sanh chỗ này chỗ kia.
“Thế nào là sự diệt tận thế gian? Đó là tham ái đối với hữu tương lai, đi đôi với tham và hỷ, ước vọng tái sanh chỗ này chỗ kia, đã được đoạn trừ không dư tàn, đã xả bỏ, đã nhả ra, đã dứt sạch, đã ly dục, tịch diệt, tịch tịnh, tĩnh chỉ.
“Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận? Tám Thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.”
Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 236. THẾ GIAN BIÊN
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Ta không nói là có người đi đến tận cùng biên tế của thế giới. Ta cũng không nói là không đi đến tận cùng biên tế của thế giới mà có thể cứu cánh tận cùng biên tế của khổ.”
Ngài nói như vậy rồi vào thất Thiền định.
Sau khi đức Thế Tôn đi rồi, bấy giờ có số đông Tỳ-kheo cùng nhau bàn luận:
“Đức Thế Tôn vừa rồi đã tóm lược nói pháp là: ‘Ta không nói là có người đi đến tận cùng biên tế của thế giới. Ta cũng không nói là không đi đến tận cùng biên tế của thế giới mà có thể cứu cánh tận cùng biên tế của khổ.’ Ngài nói như vậy rồi vào thất thiền định. Nay chúng ta chưa hiểu rõ ý nghĩa của bài pháp mà đức Thế Tôn đã nói tóm lược đó. Ở trong các vị, ai là người có thể vì chúng tôi nói đầy đủ ý nghĩa bài pháp mà đức Thế Tôn đã nói tóm lược đó không?”
Lại nói:
“Chỉ có Tôn giả A-nan là người thông minh, trí tuệ ghi nhớ tất cả; thường theo hầu bên cạnh Thế Tôn, được Thế Tôn và các vị đồng phạm hạnh có trí khen ngợi là đa văn, có thể vì chúng ta mà nói đầy đủ ý nghĩa bài pháp mà đức Thế Tôn đã nói tóm lược đó. Chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả A-nan nhờ Tôn giả giải thích.”
Rồi số đông Tỳ-kheo đến chỗ Tôn giả A-nan, thăm hỏi nhau rồi ngồi xuống một bên, đem hết mọi chuyện trên hỏi Tôn giả A-nan.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bảo các Tỳ-kheo:
“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Tôi sẽ vì các Tôn giả mà nói. Hoặc là thế gian, hoặc là danh của thế gian, giác của thế gian, ngôn từ của thế gian, ngữ thuyết của thế gian, tất cả những thứ này đều thuộc vào số mục của thế gian . Bạch các Tôn giả, [57a] mắt là thế gian, là danh của thế gian, là giác của thế gian, là ngôn từ của thế gian, là ngữ thuyết của thế gian, tất cả chúng đều thuộc vào số mục của thế gian. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử đối với sáu xứ nên biết như thật về sự tập khởi, về sự diệt tận, về vị ngọt, về sự tai hại, về sự xuất ly của chúng; đó gọi là đa văn Thánh đệ tử đã đến chỗ tận cùng của thế gian, biết được thế gian, điều mà thế gian trọng , vượt qua khỏi thế gian.”
Bấy giờ Tôn giả A-nan lại nói kệ:
Chẳng phải do bước đi,
Mà đến biên thế gian.
Không đến biên thế gian,
Thì không thoát khỏi khổ.
Cho nên đức Mâu-ni,
Là đấng Biết thế gian ,
Đã đến biên thế gian,
Các phạm hạnh đã lập.
Biên thế giới chỉ có
Chánh trí mới biết rõ.
Giác tuệ đạt thế gian,
Nên nói vượt biên kia.
“Như vậy, các Tôn giả, vừa rồi đức Thế Tôn đã tóm lược bài pháp, rồi vào thất thiền định. Nay tôi vì các Tôn giả phân biệt nói đầy đủ.”
Khi Tôn giả A-nan nói bài pháp này rồi, số đông các Tỳ-kheo nghe những lời đó xong, hoan hỷ phụng hành.
KINH 237. CẬN TRỤ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Có thầy, có đệ tử cận trụ, là khổ đối với đời sống cô độc. Không thầy, không đệ tử cận trụ, là an lạc đối với đời sống cô độc . Thế nào là có thầy, có đệ tử cận trụ, là khổ đối với đời sống cô độc? Khi duyên vào mắt thấy sắc mà sanh ra các niệm tưởng ác bất thiện câu hữu với tham, nhuế, si. Tỳ-kheo sống với pháp này, gọi là có thầy. Những gì cư trú trụ bên cạnh đó, gọi là đệ tử cận trụ. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy.
“Như vậy nói là có thầy, có đệ tử cận trụ, luôn luôn là khổ đối với đời sống cô độc.
“Thế nào là không thầy, không đệ tử cận trụ, luôn luôn là an lạc đối với đời sống cô độc? Khi duyên vào mắt thấy sắc mà sanh ra niệm ác bất thiện câu hữu với tham, nhuế, si; Tỳ-kheo này không sống với nó, đó gọi là không thầy. Chúng không nương vào Tỳ-kheo đó mà trụ, gọi là không đệ tử cận trụ. Đó gọi là không thầy, không đệ tử cận trụ, luôn luôn là an lạc đối với đời sống cô độc.
“Nếu Tỳ-kheo nào, không thầy, không đệ tử cận trụ, Ta nói người này phước phạm hạnh. Vì sao? Không thầy, không đệ tử cận trụ, Tỳ-kheo ấy đã kiến lập phạm hạnh ở nơi Ta, có thể chân chánh diệt tận khổ, cứu cánh tập khởi khổ.”
[57b] Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 238. THANH TỊNH KHẤT THỰC TRỤ
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, vào buổi sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-phất đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong, Tôn giả trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân, rồi cầm tọa cụ vào trong rừng tọa thiền nghỉ trưa. Sau khi tọa thiền xong Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, đức Phật hỏi Xá-lợi-phất:
“Ngươi từ đâu lại?”
Xá-lợi-phất đáp:
“Bạch Thế Tôn, con từ chỗ tọa thiền nghỉ trưa ở trong rừng lại.”
Phật hỏi Xá-lợi-phất:
“Hôm nay ngươi nhập vào thiền nào mà an trú?”
Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Hôm nay con ở trong rừng, nhập an trụ thiền Không tam-muội .”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Lành thay! Lành thay, Xá-lợi-phất! Hôm nay ông đã nhập thiền trú bậc thượng mà tọa thiền . Tỳ-kheo muốn nhập thiền thượng tọa, cần phải học như vầy:
“Hoặc khi vào thành, hoặc khi đi khất thực, hoặc lúc ra khỏi thành, phải tư duy như thế này: ‘Hôm nay mắt ta thấy sắc, có khởi lên dục, ân ái, ái lạc, niệm tưởng, đắm nhiễm không?’ Này Xá-lợi-phất, Tỳ-kheo quán sát như vậy, nếu nhãn thức đối với sắc mà có ái niệm, đắm nhiễm, Tỳ-kheo này vì để đoạn ác bất thiện nên phải phát khởi quyết ý tinh cần, có khả năng buộc chặt ý niệm để tu học. Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu và áo, vì muốn dập tắt hết lửa, nên phải phát khởi nỗ lực quyết tâm để dập tắt lửa. Tỳ-kheo này lại cũng phải như vậy, phải phát khởi quyết ý tinh cần, buộc chặt ý niệm để tu học.
“Nếu Tỳ-kheo khi quán sát, hoặc ở giữa đường, hoặc đi khất thực ở trong làng xóm, hoặc đi ra khỏi làng xóm, ngay trong lúc đó mà nhãn thức đối với sắc không có ái niệm, đắm nhiễm, Tỳ-kheo này ước nguyện bằng thiện căn hỷ lạc này, ngày đêm tinh cần cột niệm tu tập. Đó gọi là Tỳ-kheo đi, đứng, ngồi, nằm, với sự khất thực đã được thanh tịnh. Cho nên kinh này gọi là thanh tịnh khất thực trụ.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
KINH 239. TÌ-DA-LI
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên cạnh ao Di hầu tại Tì-da-li. Bấy giờ có gia chủ tên là Úc-cù-lũ đi đến [57c] chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch phật:
“Vì sao có Tỳ-kheo nhập Niết-bàn ngay trong đời hiện tại này, và có Tỳ-kheo không nhập Niết-bàn ngay trong đời hiện tại này?”
Phật bảo gia chủ:
“Tỳ-kheo đối với sắc được nhận thức bởi mắt mà có ái niệm, đắm nhiễm; do ái niệm, đắm nhiễm, thức luôn luôn bám trên đó, bị nó trói buộc, bị nó giữ chặt, nên không thể nhập Niết-bàn ngay trong đời hiện tại. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy.
“Tỳ-kheo đối với sắc được nhận thức bởi mắt mà không ái niệm, đắm nhiễm. Không có ái niệm, đắm nhiễm nên thức không bám trên đó. Do không bị xúc, không bị dính mắc, không bị chấp thủ, nên các Tỳ-kheo này nhập Niết-bàn ngay trong đời hiện tại. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
“Cho nên, này Gia chủ, có Tỳ-kheo nhập Niết-bàn ngay trong đời này, có Tỳ-kheo không nhập Niết-bàn ngay trong đời này.”
Như kinh Gia chủ hỏi, kinh A-nan hỏi và kinh tự Phật vì các Tỳ-kheo mà nói cũng nói như trên như vậy.
KINH 240. NHÂN DUYÊN
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại giảng đường Trùng các, bên cạnh ao Di hầu tại Tì-da-li. Bấy giờ có Tỳ-kheo đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui sang một bên, bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì mà thức con mắt sanh? Do nhân gì duyên gì mà thức tai, mũi, lưỡi, thân, ý sanh?”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Mắt do duyên sắc nên thức con mắt sanh. Vì sao? Khi thức con mắt sanh, do tất cả mắt và sắc làm nhân duyên. Tai và thanh làm nhân duyên, mũi và hương làm nhân duyên, lưỡi và vị làm nhân duyên; ý và pháp làm nhân duyên nên ý thức sanh. Vì sao? Vì những gì thuộc về ý thức, tất cả chúng đều do ý và pháp làm nhân duyên sanh ra.
“Này Tỳ-kheo, đó gọi là nhân duyên sanh ra thức con mắt, cho đến do nhân duyên sanh ra ý thức.”
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo kia nghe những điều đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.
0 nhận xét