Lúc bấy giờ Đại Sư đến Bảo Lâm, Vi Thứ sử Thiều Châu tên là Cừ cùng với các quan vào núi thỉnh Sư đến giảng đường Chùa Đại Phạm trong thành, vì họ mà khai duyên nói Pháp.
Sau khi Sư lên tòa, Thứ Sử cùng 30 vị quan liêu, hơn 30 vị nho tôn học sĩ, cùng hơn 1.000 Tăng-ni đạo tục cùng lúc làm lễ, và xin nghe pháp yếu.
Đại Sư bảo chúng:
- Thiện tri thức! Tự Tánh Bồ Đề xưa nay thanh tịnh, chỉ cần hiểu thẳng tâm này thì sẽ thành Phật.
Thiện tri thức! Hãy nghe qua xuất thân cùng việc đắc pháp của Huệ Năng tôi. Nghiêm phụ của Huệ Năng tôi nguyên quán ở Phạm Dương bị giáng chức đày đến Lãnh Nam và làm dân thường ở Tân Châu. Thân này bất hạnh, cha lại mất sớm, côi cút sống với mẹ già, sau đó dời sang Nam Hải nghèo thiếu khổ cực, làm nghề bán củi ở chợ. Bấy giờ có người khách mua củi, sai mang đến khách điếm, sau khi người khách nhận xong, Huệ Năng tôi được tiền liền ra khỏi cửa, chợt nghe một người khách tụng kinh, Huệ Năng tôi vừa nghe lời kinh tâm liền khai ngộ, liền hỏi khách tụng kinh gì? Khách đáp, Kinh Kim Cương. Lại hỏi người từ đâu lại trì tụng kinh điển này? Khách đáp: Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, Kỳ Châu lại. Chủ hóa của ngôi chùa này là Ngũ tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư, môn hạ của Người có hơn ngàn người. Tôi đến đó lễ bái thọ thính Kinh này, Đại Sư thường khuyên tăng tục chỉ cần thọ trì kinh Kim Cương thì tự thấy tánh hiểu thẳng thành Phật, Huệ Năng tôi nghe nói biết mình có túc duyên đời trước. Lại nhờ một người khách cho Huệ Năng tôi 10 lạng bạc để cấp dưỡng mẹ già, và dạy sang Hoàng Mai tham lễ Ngũ Tổ, Huệ Năng tôi an trí mẹ già xong, liền từ biệt những người thân. Thời gian đi gần một tháng mới đến Hoàng Mai, lễ bái Ngũ Tổ. Tổ hỏi:
- Nhà ngươi là người phương nào? Muốn cầu vật chi?
Huệ Năng tôi đáp.
- Đệ tử là thường dân ở Tân Châu, đất Lãnh Nam, từ xa đến đây lễ Thầy, và chỉ cầu làm Phật chớ chẳng cầu việc chi.
Tổ bảo:
- Nhà ngươi, người Lãnh Nam là giống man ri mọi rợ, lại có thể làm Phật được sao?
Huệ Năng tôi thưa:
- Người tuy có Nam-Bắc nhưng Phật tánh không có Nam-Bắc. Thân tuy quê mùa mọi rợ cùng Hòa Thượng chẳng đồng nhưng Phật tánh có sai khác nào?
Ngũ Tổ tuy muốn nói thêm, nhưng thấy chung quanh đồ chúng quá đông, nên sai theo chúng làm việc. Huệ Năng tôi thưa:
- Huệ Năng con xin trình Hòa Thượng: Tự tâm đệ tử thường sanh trí tuệ, chẳng rời tự Tánh tức là phước điền ruộng phước, xin Hòa Thượng còn dạy con làm những công việc gì nữa?
Tổ bảo:
- Tên quê mùa mọi rợ này căn tánh thật là lợi hại! Nhà ngươi chớ thêm lời, hãy đi ra sau nhà chứa củi.
Huệ Năng tôi quay lui ra sau viện, gặp một hành giả sai Huệ Năng tôi bửa củi, giã gạo. Thời gian hơn tám tháng, một hôm Tổ chợt trông thấy. Tổ bảo:
- Ta nghĩ cái kiến giải của nhà ngươi có thể dụng được, nhưng sợ rằng có kẻ ác hại ngươi, nên ta không cho ngươi nói. Nhà ngươi có biết điều đó chăng?
Huệ Năng tôi thưa:
- Đệ tử đã biết ý thầy nên chẳng dám đi đến nhà trước để mọi người không ai để ý.
Một ngày nọ, Tổ cho gọi tất cả môn nhơn lại và nói với mọi người:
- Sanh tử là việc lớn của người đời, nhưng các ngươi suốt ngày chỉ cầu ruộng phước mà chẳng cầu ra khỏi sanh tử. Tự tánh nếu đã mê thì phước nào cứu được? Các ngươi hãy lui đi, và tự xem lại Trí tuệ của mình, đem cái tánh Bát nhã bổn tâm của mình, mỗi người hãy làm một bài kệ trình cho ta xem. Nếu ai ngộ được ý lớn đó, thì ta sẽ phó chúc cho người đó Y Bát và lên làm Tổ Sư đời thứ 6. Hãy nhanh lên, chẳng được chậm trễ. Nên nhớ dụng tâm suy nghĩ cân nhắc chẳng được nào. Lời nói ra của người thấy tánh cần phải được thấy ngay. Như vậy, cho dù múa đao ra trận cũng thấy được (tánh).
Tất cả mọi người lui ra và cùng nhau bảo rằng: Chúng ta không cần lắng lòng dụng ý để làm kệ, đã có Thượng Tọa Thần Tú hiện làm giáo thọ sư, chắc chắn là người sẽ được. Lũ chúng ta tự dối mình để làm kệ tụng cũng chỉ uổng công mà thôi. Mọi người nghe những lời này đều không màng nghĩ đến nữa. Họ bảo nhau, chúng ta mãi mãi y chỉ vào Tú Sư, phiền gì phải làm kệ. Lúc ấy, Thần Tú suy nghĩ: mọi người chẳng trình kệ chỉ vì ta làm giáo thọ sư của họ. Vậy, ta phải làm kệ để trình lên Hoà Thượng, nếu ta chẳng trình kệ thì Hòa Thượng làm sao biết được kiến giải cạn sâu trong tâm ta? Ta trình kệ với ý cầu pháp thì tốt, còn cầu mong ngôi vị Tổ là điều không tốt, khác nào phàm phu muốn soán đoạt thánh vị. Nhưng nếu chẳng trình kệ thì cuối cùng chẳng được pháp. Khó thay! Khó thay!
Phía trước phòng Ngũ Tổ có 3 gian hành lang nơi dự định mời quan Cung Phụng Lô Trân đến họa bức biến tướng trong kinh Lăng Già, và biểu đồ đắc pháp của 5 vị Tổ để lưu truyền cúng dường. Thần Tú làm kệ đã xong, qua bao nhiêu lần muốn trình, nhưng đi đến trước nhà, trong lòng hoảng hốt, mồ hôi toát ra khắp người. Trải qua 4 ngày định trình lên nhưng chẳng được, 13 lần đến trước hành lang mà vẫn không trình được. Tú mới suy nghĩ, hay ta viết vào bức vách nam lang, nhờ mọi người mà Hòa Thượng sẽ xem thấy. Nếu người bảo được thì ta sẽ ra lễ bái trình bày là bài kệ của Tú con làm, còn nếu người bảo không được thì uổng phí bao nhiêu năm ta vào chùa cho người lễ bái, nhưng nào có ra gì?
Đêm hôm đó, vào lúc canh ba không cho ai hay biết, tự mình cầm đèn viết bài kệ lên vách nam lang trình lên chỗ thấy của tâm mình:
Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để bụi nhơ bám.
Viết kệ xong, Thần Tú trở về phòng, mọi người không ai hay biết. Tú lại suy nghĩ: Ngày mai nếu Ngũ Tổ thấy kệ mà hoan hỷ tức ta có duyên với Phật Pháp, còn nếu người bảo chẳng được, đó là tại ta mê muội tạo ra nghiệp chướng nhiều đời quá nặng, nên không đáng đắc pháp. Ý Thánh khó lường! Ở trong phòng luôn luôn lo lắng suy nghĩ, ngồi nằm chẳng yên mãi đến canh năm.
Tổ đã biết Thần Tú nhập môn chưa được vì chẳng thấy tự tánh. Sáng hôm đó, Tổ cho gọi quan Cung Phụng Lô Trân đến viết đồ tướng lên trên vách nam lang, bỗng thấy bài kệ kia, liền bảo: Quan Cung Phụng! Thôi chẳng cần về nữa. Thật là nhọc công cho ông từ xa lại đây, tuy kinh dạy: “Phàm cái gì có tướng đều là hư vọng.” Nhưng, nên để lại bài kệ này cho mọi người trì tụng. Nếu y vào bài kệ này mà tu hành thì khỏi đọa vào đường ác; hoặc y vào kệ này mà tu hành thì sẽ có nhiều lợi ích. Rồi Ngài bảo môn nhân đốt hương lễ kính và bảo mọi người đều tụng bài kệ này thì sẽ được thấy tánh. Môn nhân tụng kệ đều tấm tắc khen hay. Canh ba Tổ gọi Tú vào phòng hỏi: Nhà ngươi đã làm ra bài kệ đó phải không? Tú thưa: Thật, Tú con đã làm ra bài kệ đó. Con chẳng dám vọng cầu Tổ vị, mong Hòa Thượng từ bi xem thấy đệ tử có chút ít trí tuệ nào chăng?
Tổ dạy:
- Nhà ngươi làm ra bài kệ này, chưa thấy được bổn tánh, chỉ đến được phía ngoài cửa chứ chưa vào được trong cửa. Theo kiến giải này thì cầu Vô thượng Bồ đề rõ ràng chưa thể nào được. Vô thượng Bồ đề là ngay lời nói ra cần phải biết tự bổn tâm, thấy được bổn tánh không sanh không diệt. Trong bất cứ lúc nào niệm niệm tự thấy tánh, muôn pháp không buộc, một chơn tất cả đều chơn, mọi hiện tượng tự thanh tịnh, tự như như. Tâm như như tức là chân thật. Nếu thấy như vậy, thì đó chính là Vô thượng Bồ đề. Nhà ngươi hãy lui ra, suy nghĩ thêm vài ngày nữa làm lại một bài kệ khác đem lại, Ta sẽ xem bài kệ của ngươi, nếu nhập môn được ta sẽ trao Y-bát cho ngươi, Thần Tú đảnh lễ lui ra.
Trải qua mấy ngày mà làm kệ chẳng thành, trong lòng hoảng hốt, thần trí bất an, như người trong mộng, ngồi đứng chẳng vui.
Lại vài ngày sau, có một đồng tử đi ngang qua chỗ giã gạo đọc lên bài kệ này, Huệ Năng tôi nghe qua một lần biết bài kệ này chưa thấy bổn tánh. Dù chưa được người truyền dạy, nhưng đã biết đại ý, bèn hỏi đồng tử tụng kệ gì đó? Đồng tử bảo: Người đúng là tên quê mùa mọi rợ không biết chi cả. Đại Sư có dạy, Sanh-Tử là việc lớn của người đời, Ngài muốn trao truyền Y pháp nên bảo môn nhơn làm kệ đem lại người xem, nếu ai ngộ được đại ý thì người trao Y pháp để làm Tổ Sư đời thứ 6. Thượng Tọa Thần Tú đã viết bài kệ vô tướng lên vách Nam Lang. Đại Sư bảo mọi người phải tụng, y vào kệ này mà tu hành thì khỏi đọa đường ác, hoặc y vào kệ này mà tu hành thì sẽ được nhiều lợi ích.
Huệ Năng tôi bảo:
- Thượng nhân! Tôi đạp chày giã gạo đã hơn 8 tháng, chưa từng đi đến nhà trên, mong Thượng nhơn dẫn tôi đến trước để lễ bái. Đồng tử dẫn đến trước bài kệ, lễ bái xong. Huệ Năng tôi bảo:
- Huệ Năng tôi không biết chữ, xin Thượng nhân vì tôi mà đọc.
Lúc ấy có Biệt Giá Giang Châu là Trương Nhật Dụng liền đọc lớn lên. Huệ Năng tôi nhân đó nói rằng:
- Tôi cũng có một bài kệ, nhờ Biệt giá vì tôi mà viết dùm.
Biệt giá nói:
- Ông cũng làm kệ à! Việc này thật là hi hữu. Huệ Năng tôi quay sang Biệt giá bảo:
- Muốn học Vô Thượng Bồ đề thì chẳng nên khinh chê người mới học. Người hạ cấp đôi khi lại có trí tuệ tuyệt vời mà ngược lại người thượng cấp có thể không có chút trí tuệ nào, nếu khinh người thì sẽ bị vô lượng vô biên tội.
Biệt giá nói:
- Ông hãy đọc kệ đi, tôi sẽ vì ông mà viết. Nếu ông đắc pháp thì trước tiên phải độ tôi, hãy nhớ lời này.
Huệ Năng tôi đọc kệ:
- Bồ đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Nơi nào bụi bám vào.
Bài kệ này viết xong, đồ chúng đều kinh ngạc, mọi người bảo nhau:
- Kỳ lạ thay! Thật không được căn cứ vào tướng mạo mà đánh giá người. Lâu nay, sao lại sai khiến một vị Bồ Tát ở trong xác phàm?
Tổ thấy mọi người kinh ngạc, sợ có kẻ ác hại, liền dùng giày xóa bài kệ đi, và bảo: cũng chưa thấy tánh, mọi người nhờ vậy hết nghi.
Hôm sau, Tổ lén đến chỗ giã gạo thấy Năng tôi đang đeo đá nơi lưng giã gạo. Dạy rằng:
- Người cầu đạo vì Pháp quên mình đến như vậy ư? Lại bảo:
- Gạo đã trắng chưa?
Huệ Năng tôi thưa:
- Gạo đã trắng từ lâu, chỉ còn thiếu cái sàng.
Tổ dùng gậy gõ xuống cối giã gạo ba lần rồi bỏ đi. Huệ Năng tôi hiểu liền ý Tổ, trống vừa điểm canh ba thì vào phòng Tổ. Tổ dùng áo ca sa che quanh không cho người thấy rồi vì tôi mà nói kinh Kim Cương đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Huệ Năng tôi hốt nhiên đại ngộ hết thảy muôn pháp đều chẳng lìa tự tánh. Bèn thưa Tổ rằng: "Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động, đâu ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp".
Tổ biết Huệ Năng tôi đã ngộ bản tánh nên bảo Huệ Năng tôi rằng:
- "Người chẳng biết bổn tâm thì học Phật pháp cũng vô ích. Nếu biết tự bổn tâm, thấy tự bổn tánh thì gọi là Trượng phu, là Thầy của Trời Người là Phật".
Thọ pháp giữa canh ba, mọi người chẳng ai biết. Nhân đây Tổ truyền đốn giáo cùng Y Bát và dạy rằng: "Nhà ngươi là Tổ Sư đời thứ sáu, hãy khéo léo tự hộ niệm và rộng độ hữu tình, lưu lại đời sau không cho đoạn tuyệt. Hãy nghe bài kệ của Ta:
Hữu tình gieo giống xuống
Nhờ đất quả lại sanh
Vô tình đã không giống
Vô tánh cũng không sanh.
Tổ lại bảo:
- Xưa kia Đại Sư Đạt Ma đến đất này, vì mọi người chưa tin nên truyền lại y này để làm thể tin, truyền từ đời này sang đời khác. Nhưng pháp thì lấy tâm truyền tâm, khiến cho mọi người tự ngộ tự giải. Từ xưa Chư Phật chỉ truyền bổn thể, Chư Sư trao mật bổn tâm. Y là đầu mối của sự tranh chấp, nhà ngươi, thôi đừng truyền nữa. Nếu truyền Y này thì tính mạng của nhà ngươi như sợi chỉ mành treo chuông. Nhà ngươi hãy đi nhanh, sợ rằng sẽ có người hại ngươi.
Huệ Năng tôi thưa:
- Con sẽ đi về đâu?
Tổ bảo:
- Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.
Canh ba Huệ Năng tôi nhận lãnh Y-bát và thưa rằng:
- Năng con vốn người miền Nam chẳng biết đường núi này, làm sao ra được cửa sông?
Ngũ Tổ dạy:
- Nhà ngươi đừng lo, Ta sẽ đích thân đưa ngươi đi. Tổ đưa đến tận trạm Cửu Giang, Tổ bảo lên thuyền. Ngũ Tổ cầm mái chèo chèo đi. Huệ Năng tôi thưa:
- Xin mời Hòa Thượng ngồi, để đệ tử chèo cho mới đúng.
Tổ bảo:
- Đúng ra Ta độ ngươi
Huệ Năng tôi thưa:
- Lúc mê thì Thầy độ, khi ngộ rồi con tự độ.
Từ "Độ" tuy là một, nhưng chỗ dùng chẳng giống nhau. Huệ Năng tôi sanh nơi biên địa, nên ngữ âm dùng chẳng đúng, nhờ ơn Thầy truyền pháp, nay đã ngộ rồi thì lấy tự tánh tự độ mới đúng.
Tổ dạy:
- Đúng như vậy! đúng như vậy! Sau này Phật pháp do nhà ngươi truyền rộng. Nhà ngươi đi rồi ba năm nữa ta sẽ thị tịch. Bây giờ nhà ngươi hãy đi nhanh lên, gắng sức đi về phương Nam, chớ vội giảng nói mà khó hưng thịnh Phật pháp.
Huệ Năng tôi từ biệt Tổ xong, cất bước đi về Nam. Thời gian khoảng 2 tháng đã đến núi Đại Dữu. (Ngũ Tổ về, mấy ngày chẳng lên giảng đường. Trong chúng sanh nghi đến thưa rằng: Hòa Thượng có ốm đau gì chăng? Tổ đáp: Bệnh tật thì không, nhưng Y-Bát đã về phương Nam rồi. Thưa: Ai được truyền thọ? Tổ bảo: Huệ Năng đã được, chúng biết ngay).
Liền sau đó có vài trăm người đuổi theo muốn đoạt lại Y-Bát. Có một Tăng tên tục là Trần Huệ Minh trước kia làm tướng quân đến bực Tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, quyết chí tìm cho được, và đã đuổi theo kịp Huệ Năng tôi trước mọi người. Huệ Năng tôi đặt Y-Bát xuống một tảng đá và nói rằng: Y này là vật làm tin, há đem vũ lực tranh đoạt được sao? Rồi Huệ Năng tôi ẩn mình vào trong bụi rậm. Huệ Minh đến nhất Y lên chẳng được, bèn cất tiếng gọi:
- Hành giả! hành giả! Tôi đến đây vì pháp chớ chẳng vì Y.
Huệ Năng tôi liền bước ra và ngồi trên phiến đá, Huệ Minh làm lễ và thưa:
- Mong hành giả vì tôi mà nói pháp.
Huệ Năng tôi nói:
- Nhà ngươi đã vì pháp mà đến thì hãy dẹp bỏ các duyên chớ sanh một niệm, Ta sẽ vì nhà ngươi mà nói rõ trong giây lát.
Huệ Năng tôi bảo:
- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là bản lai diện mục của Huệ Minh Thượng Tọa?
Ngay sau câu nói đó, Huệ Minh đại ngộ, lại hỏi:
- Ngoài mật ý của những lời nói trên, còn có mật ý nào khác chăng?
Huệ Năng tôi bảo:
- Những gì ta đã nói ra cho nhà ngươi thì chẳng còn là mật ngữ nữa, nếu nhà ngươi tự phản chiếu lại thì chính mật ngữ ở nơi nhà ngươi.
Huệ Minh thưa:
- Huệ Minh tôi tuy ở bên cạnh Hoàng Mai nhưng thật ra chưa tỉnh ngộ được cái diện mục chính mình. Nay nhờ ân chỉ dạy chẳng khác nào người uống nước lạnh nóng tự biết. Bây giờ, hành giả là thầy của Huệ Minh này.
Huệ Năng tôi bảo:
- Nếu nhà ngươi đã như vậy thì ta và nhà ngươi cùng một thầy là Hoàng Mai. Hãy khéo léo mà tự giữ gìn.
Minh lại thưa:
- Huệ Minh tôi hiện nay cũng như sau này nên đi về đâu?
Huệ Năng tôi bảo:
- Gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở.
Minh lễ bái từ biệt.
(Minh xuống tới chân núi gặp mọi người và bảo: Trên ngọn núi cao này hoàn toàn không thấy tông tích, nên đi tìm hướng khác, mọi người tưởng là thật. Huệ Minh sau đổi hiệu là Đạo Minh để tránh chữ đầu của Thầy).
Huệ Năng tôi, sau đến Tào Khê cũng bị kẻ ác tầm đuổi, nên đến Tứ Hội, lánh nạn trong đám thợ săn, trải qua 15 năm dài. Lúc ấy, cùng với đám thợ săn tùy nghi nói pháp cho họ. Đám thợ săn thường hay sai tôi giữ lưới, mỗi lần thấy có con vật nào bị mắc thì Năng tôi thả hết, khi đến giờ ăn chỉ lấy rau ghé vào nồi thịt đang nấu để ăn, nếu có ai hỏi thì trả lời chỉ thích ăn rau ghé vào nồi thịt mà thôi.
Một hôm, suy nghĩ đã đến lúc nên ra hoằng pháp, không nên ẩn lánh mãi được, bèn đi đến chùa Pháp Tánh, Quảng Châu gặp lúc pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn.
Lúc bấy giờ gió thổi lay động lá phướn. Một vị tăng bảo rằng gióng động, một vị tăng khác bảo lá phướn động, tranh luận nhau mãi. Huệ Năng tôi bước đến bảo rằng:
- Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải phướn động mà chính tâm của hai nhân giả động đó. Cả chúng đều giật mình. Ấn Tông mời lên chỗ cao ngồi và gạn hỏi nghĩa lý sâu xa. Thấy lời đối đáp của Huệ Năng tôi đơn giản, nhưng nghĩa lý lại chính xác, mà không theo văn tự cú pháp nào Tông nói:
- Hành giả nhất định không phải là người thường. Từ lâu đã nghe Y pháp của Hoàng Mai truyền vào phương Nam, chẳng phải hành giả thì ai đây?
Huệ Năng tôi nói:
- Chẳng dám!
- Tông liền làm lễ, và xin cho đại chúng được xem Y-bát truyền lại. Tông lại hỏi:
- Khi phó chúc Hoàng Mai truyền dạy như thế nào?
Huệ Năng tôi bảo:
- Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về thấy tánh chứ chẳng luận về thiền định hay giải thoát gì cả.
Tông hỏi:
- Tại sao không luận về Thiền định và giải thoát?
Năng tôi bảo:
- Vì hai pháp chẳng phải Phật pháp, mà Phật pháp là pháp không hai.
Tông lại hỏi:
- Sao gọi pháp không hai là Phật pháp?
Huệ Năng tôi nói:
- Pháp sư giảng kinh Niết Bàn đã làm rõ Phật tánh, thì đó chính là pháp không hai của Phật pháp như Bồ tát Cao Quí Đức Vương bạch Phật: Người phạm vào cấm giới thuộc bốn tội nặng, tạo năm tội nghịch cùng bọn Nhất Xiển Đề thì Phật tánh thiện căn của họ có bị đoạn mất không? Phật dạy: Thiện căn có hai: một là thường, hai là vô thường, còn Phật tánh thì chẳng phải thường, chẳng phải vô thường cho nên chẳng bị đoạn. Đó gọi là không hai - Một là thiện, hai là bất thiện còn Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải không thiện. Đó gọi là không hai. Uẩn và Giới phàm phu thấy hai, người trí liễu đạt tánh của chúng không hai. Tánh không hai là Phật tánh.
Ấn Tông nghe nói, vui mừng chắp tay nói:
- Tôi giảng kinh như gạch ngói còn nhân giả thì luận nghĩa như vàng ròng.
Nhân đây xuống tóc cho Huệ Năng tôi và nguyện thờ làm thầy.
Huệ Năng bèn mở pháp môn Đông Sơn dưới cây Bồ Đề.
Từ khi đắc giới ở Đông Sơn, Huệ Năng tôi chịu không biết bao nhiêu điều cay đắng khổ đau, mạng sống như chỉ mành treo chuông. Ngày nay được cùng Sử Quân, các quan, Tăng ni đạo tục gặp gỡ nơi đây. Thật nếu không phải nhân duyên nhiều kiếp, thì cũng nhờ sự cúng dường chư Phật trong quá khứ cùng gieo trồng những căn lành nên mới nghe được nhân duyên đắc pháp đốn giáo như trên.
Giáo pháp do Phật tổ từ trước truyền lại, chứ chẳng phải do tự trí Huệ Năng tôi phịa đặt. Mong mọi người nghe giáo pháp của Phật tổ tất cả đều được tâm thanh tịnh, và khi nghe xong đều tự dứt trừ nghi hoặc cũng như Phật tổ đời trước vậy.
Cả chúng nghe pháp xong đều hoan hỷ làm lễ mà lui.
0 nhận xét